You are on page 1of 127

Những Thiên Đường Mù

1
Những Thiên Đường Mù

Chương 1

Chín giờ sáng, bà Vêra đưa cho tôi bức điện: “Cậu ốm nặng, Hằng tới ngay.”

Sau khi quan sát gương mặt tôi, bà bảo:

- Tội nghiệp cho mày. Mày là một con bé thiếu may mắn.

Nói xong, lắc mái đầu đồ sộ, bà quay đi. Mùi nước hoa rẻ tiền tạt lại, vương trong
không gian, như một thứ nhựa loãng dính vào các bức tường vôi đã tróc lở. Tôi mặc
đồ ngủ, đứng co ro nhìn tấm thân phì nhiêu của người đàn bà gác dan, đầu óc rối
tung. Chính tôi, tôi cũng đang ốm. Những trận viêm phế quản liên miên vừa qua
khiến hai vai tôi còng xuống như lão già nghiện nặng. Ngực lép dẹt, không chiếc áo
lót nào còn mặc vừa. Khu cư xá chỉ có vài mống đàn ông, toàn thứ đồ cổ. Vậy mà đi
qua mặt tôi, họ cũng không buồn đưa mắt liếc qua. Trong số 800 rúp dành dụm
được, tôi đã tiêu hết 450 tiền thuốc men và thứ ăn bồi dưỡng. Tôi dự định tiêu thêm
50 rúp nữa khoản đó, cho đủ sức đi làm. Vậy mà, đúng lúc bức điện trời đánh kia
giáng xuống.

- Con điên, mới bảnh mắt đã ra đứng ngoài ấy làm gì? Vào phòng ngay không cảm
lại một trận nữa thì đời ra tương.

Cô bạn cùng phòng hét to. Tôi quay vào, chui trong tấm chăn nồng sực hơi ấm. Hạnh
phúc quá. Hôm nay chủ nhật, tất cả đều nghỉ việc. Cả bọn dự định làm bún kiểu Việt
Nam ăn bữa trưa. Còn lúc này, tất cả rúc trong chăn nghe nhạc. Tiếng nhạc từ căn
phòng nào đó từ tầng trên vẳng xuống. Vừa nghe, vừa thả lỏng tấm thân mệt mỏi,
vừa gặm nhấm nỗi nhớ nhà. Khung cửa sổ căn phòng của chúng tôi mở rộng. Không
ngọn cây nào vươn được tới đó. Nhưng bù lại, là trời xanh ngăn ngắt, màu xanh
trong và lạnh, thăm thẳm đơn côi.

- Điện gì thế Hằng?


Cô bạn tôi hỏi.
- Ông cậu ốm.
Tôi đáp lời.
- Cái ông ở Matxcơva chứ gì?
- Ừ.
- Nhưng mày cũng vừa ốm dậy.
- ...
- Chì còn được nghỉ bốn hôm nữa thôi. Hôm qua, mụ Tanhia vừa nhắc đấy
- ...
- Từ đây tới Matxcơva có ít đường đất đâu? Những đi về đã đủ ốm rồi.
- ...
- Mà mày xanh bủng ra như đàn bà hậu sản. Không chịu phấn son vào, nhìn pháp
khiếp.

Tôi lặng im, không đáp. Nhưng dường như, cùng lúc với tiếng nói của cô bạn, trong
tôi thầm vang lên lời phản bác:

2
Những Thiên Đường Mù

- Không đi, không đi! Mặc kệ, mặc kệ.

Con đường hun hút lướt qua. Những cột cây số chạy lùi. Các cánh rừng và những
đồng lúa mì ngút ngát. Các tỉnh lỵ với chóp nhà thờ và những khuôn viên. Tiếng
bánh xe lăn trên đường ray buồn tẻ. Cac sân ga trong ánh điện hoặc trong lớp sương
mù.

Đang nằm, chợt cô bạn tôi vùng lên, vẫn tay áo lê thê như thế, cô tới giá sách, chọn
một chiếc đĩa hát. Rồi cô mở chiếc máy quay đĩa mới vừa mua, giá 120 rúp. Bỏ tấm
vải phủ, bật nắp máy, cô đặt chiếc đĩa hát và cho máy chạy. Tiếng kim chạy xè xè
qua những vòng rãnh câm, Cô bạn lại nhảy lên giường, trùm chăn. Lúc ấy, tiếng hát
bỗng cất lên, đột ngột:

Ở tận sông Hồng em có biết?


Quê hương anh cũng có dòng sông
Anh mãi gọi với lòng tha thiết
Vàm Cỏ Đông! Ơi Vàm Cỏ...

Giọng hát bay chói vói trong không gian. Xanh và lạnh. Trời đang nắng rỡ ngoài kia,
nhưng cái lạnh ly hương thấm vào da thịt. Bài ca, như sợi chỉ bạc mong manh, lạc
lõng giữa khung trời. Nó khiến tôi có cảm giác bị xô đẩy tới tận cùng trái đất. Rồi nó
lại kéo tôi về với 1 triền sông quen, bờ cát nóng bỏng ánh trời, cánh buồm tả tơi
chòng chành trên sóng nước, tiếng kêu khắc khoải của lũ chim di trú bay.

Trời ơi, mái nhà đã sụp lở của mẹ tôi. Một bên mái ghép bởi tấm tôn và mảnh giấy
tẩm nhựa đường. Ngày mưa, tiếng mưa gõ trên mái tôn rổn rảng. Trưa hè, mùa
nhựa đường khét lẹt bốc lên khiến ta muốn buồn nôn. Những rãng nước bẩn chảy từ
nhà nọ sang nhà kia, dưới các phiến gạch xi măng ghép. Lũ trẻ trong ngõ thường
khuấy dòng nước đen nhơ bẩn đó lên chơi. Chúng thả xuống cống những con thuyền
gập bằng giấy trắng. Ngay bên rãnh nước, bụi nhài tỏa hương ngây ngất. Con đường
phố quen, những bụi cỏ leo cớm nắng dưới chân tường, nơi lúc nào cũng khai nồng
nặc vì dòng nước tiểu của đám người say bia vô sỉ rót xuống.

- Hằng ơi! nghĩ gì thế?


- Không
- Nhớ nhà quá mày. Đau quặn ruột.
- ...

Cô bạn tôi cất tiếng rên rỉ. Nó quấn chăn lăn giẫy ầm ầm trên giường, rồi đột ngột
bật kêu to:
- Ối giời ơi, thế này thì chết mẹ nó đi cho xong.

Tôi im lặng, không đáp. Vì chính tôi cũng đã khóc tự lúc nào chẳng rõ. Nước mắt
nóng và mặn khiến tôi nghẹn họng. Trong làn sóng nước mắt, gương mặt u uất của
mẹ tôi hiện lên. Mắt bà rất đen, lút dưới hai hố sâu, chiếu ra những tia sáng buồn.
Trong cái nhìn của bà găm giữ nỗi thống khổ và sức chịu đựng không thể đo đếm.
Hồi trước, mỗi lần gia đình chúng tôi gặp tai biến, là một lần mẹ nhắc nhở:
- Làm người cốt nhất là không được thối chí. Chỉ một phút xuôi tay, mọi sự sẽ đổ
nát. Gừng già gừng rụng, gừng cay, anh hùng càng cực càng dày nghĩa nhân.

Mẹ đã sống theo châm ngôn ấy suốt đời. Mẹ muốn tôi cũng sống được như mẹ. Vậy
mà tôi đã làm gì cơ chứ? Ông cậu ruột, người em duy nhất của mẹ bị ốm, điện cầu
cứu tôi, và tôi đã định làm ngơ.

3
Những Thiên Đường Mù

Ở phòng gác dan, bà Vêra đang đan một tấm khăn len bằng rất nhiều thứ ken tháo
từ các tấm áo cũ ra. Tấm khăn ấy có thể choàng kín cả tấm lưng đồ sộ của bà vì nó
xấp xỉ một tấm khăn trải bàn. Đôi tay nhỏ, trắng trẻo, trẻ hơn mặt bà 10 tuổi, luồn
lách mũi kim 1 cách khéo léo. Không ai đoán được một người vóc dáng thô tháp,
mông vại, lưng gấu gù gù như bà lại có thể đan nổi chiếc khăn đẹp thế. Bà đang
chăm chú đan nốt những dòng cuối cùng. Thấy tôi, bà ngẩng mặt lên nhìn, cặp kính
lão tụt xuống chóp mũi:
- Mày nhất quyết đi Matxcơva?
- Cháu phải đi, bà Vêra ạ.
- Tao trông mày xanh lắm.
- Vâng, nhưng ông ấy là cậu ruột cháu.
Bà Vêra cúi xuống:
- Chờ tao một lát.
Tôi đứng chờ, hơi sốt ruột vì sợ trễ tàu. Nhưng nể bà nên không dám giục. Bà Vêra
kiên trì chiết nốt dòng cuối, rồi vuốt ve tấm khăn một cách trìu mến, bà bảo tôi:
- Mày thấy đẹp không?
- Rất đẹp.
- Toàn len cũ giặt lại đấy.
Bà nói, giọng đầu tự hào. Xong xuôi, bà ghi tên tôi vào cuốn sổ trực to tướng. Chỉ đợi
có thế, tôi vội vã chào:
- Cháu đi đây.
Nhưng bà gác dan đã thò cánh tay hộ pháp qua cửa nắm tay tôi:
- Chờ đã. Tao cho mày mượn tấm khăn len này. Đêm nay sẽ phải dùng tới nó đấy,
chuột nhắt ạ.

Tôi cúi chào, cảm ơn người gác dan nặng 92 kilô, tốt bụng nhưng cũng nghiệt ngã và
hay nổi nóng một cách bất ngờ, như hầu hết những người đàn bà góa bụa sau chiến
tranh ở nước Nga. Tôi đi ôtôbuýt ra ga. May mắn sao, tôi đã tới kịp chuyến tàu tốc
hành duy nhất trong ngày. Tàu khởi hành lúc 5 giờ chiều. Khoảng khắc ấy, tất cả các
ngôi nhà trong thành phố, những rặng cây bên vỉa hè, và các mảnh rừng nhỏ nằm
xiêu xiêu nơi ngoại ô đều đẹp lên rực rỡ vì tẩm nhiễm làn ánh sáng nhấp nhoáng của
vàng tan loãng. Váy các cô gái bay tung, mỏng hơn, gọi mời hơn trong thứ ánh sáng
ấy. Tôi ngắm các cô không chán mắt, với tâm trạng đã trở lại thơ thới. Khi vào cửa
ga, tôi bỗng chạm phải 1 người đàn bà tóc hoe vàng, quấn thành từng lọn trên mái
đầu tròn trĩnh. Bà ta khẽ nhăn đôi mày lại, không nói gì. Tôi lí nhí cất tiếng xin lỗi,
nhưng có lẽ giọng tôi quá nhỏ, hoặc người đàn bà quýphái đó không muốn nghe, nên
bà ta đã đi lướt qua rất nhanh. Tấm áo nhung đỏ và chiếc váy nhung đen bó sát tấm
thân óng ả. Cặp mắt kiêu hãnh nhìn thẳng. Mùi phấn bay như một loài hoa... Rồi tôi
thấy mình trong gương: Một con bé da xanh tái, nét mặt ngơ ngác và âu lo, vai lép
dẹt, mặc bộ đồ nâu lợt, dáng vẻ thiếu tự tin, cân nặng 42 kilô.

- Đừng cả nghĩ... Đừng mặc cảm... Mình là một con bé đa sự, vớ vẩn...
Tôi tự lẩm bẩm mắng mình. nhưng dẫu sao, cảm giác tủi hổ vẫn bám trên hai gò má
nóng rực của tôi, như lớp son dính. Tôi bỗng thấy oán ghét ông cậu tôi. Lên tàu, chui
vào góc toa của mình, tôi nhắm mắt lại. Và như một cuốn phim sử thuật, cuộc sống
quá vãng lần mở ra...

4
Những Thiên Đường Mù

Chương 2

Ông ngoại tôi làm nghề bốc thuốc. Cụ cứu chữa cho rất nhiều con bệnh nặng trong
vùng, nhưng chính cụ không cứu được mình. Ông tôi mất năm 43 tuổi, vì một căn
bệnh không định rõ. Sau này, theo triệu chứng lâm sàng, người ta đoán là bệnh ung
thư. Bà ngoại tôi năm ấy 42 tuổi, ở vậy nuôi con, mẹ tôi và cậu Chính. Mười tám
tháng sau, bà cũng cảm hàn đột ngột đi theo ông. Lúc đó, mẹ tôi 19, cậu Chính 17.
Cậu được một người bà con tình cờ về dự đám ma dắt lên chiến khu Việt Bắc. Cậu
vào bộ đội luôn. Mẹ tôi ở làng bán hàng xén trên chợ huyện, chăm sóc nhà cửa, mồ
mả ông cha. Ngôi nhà của ông ngoại tôi, tôi đã về thăm một lần. Đó là một ngôi nhà
thấp, lợp ngói vẩy cá, hiên bức bàn, cửa gỗ, các chân cột kê đá hình trụ chống ẩm.
Ngoài nhà ở, còn ba gian nhà ngang dùng làm nơi gác nong tằm, xay giã gạo và
chứa nông cụ. Nhà của ông bà ngoại tôi rất chắc chắn, nhưng tối tăm, loại nhà cổ.
Buổi trưa, tôi đứng trong nhà, thấy hơi ẩm toát ra từ các bức tường ghép gỗ, từ các
cây rui được đẽo gọt cầu kỳ giương hình chạm như những con mắt bí hiểm. Từ các
đầu hồi tăm tối, nơi thỉnh thoảng một chiếc mạng nhện đu đưa, ánh sáng rọi qua các
kẽ ngói mục ẩm bị đứt quãng, run rẩy như lửa ma trơi. Tự dưng tôi sởn da gà, vội
chạy ra sân. Mẹ tôi, lúc ấy đang cùng mấy người đàn bà nữa ngồi uống chè xanh liền
hỏi:
- Làm sao thế em?
- Không sao, nhưng con sợ.
- Rõ đồ con vịt, giữa ban ngày ban mặt mà còn thế.

Mẹ chửi. miệng tủm tỉm cười. Tôi nhìn hai hàm răng đều chằn chặn, ánh trắng rực rỡ
như ngọc trai của mẹ, bỗng nhiên buồn. Đó là mảnh nhan sắc cuối cùng còn sót lại
của mẹ. Một thời xuân sắc qua, chẳng để làm gì, chẳng dành cho ai. Tôi hỏi vu vơ:
- Ngày trước, mẹ có sợ không?
Mẹ gắt:
- Nhà của tổ tiên, ông bà, có gì mà sợ?
Tôi gặng:
- Nhưng mẹ ở một mình.
Một bà hàng xóm cỡ tuổi mẹ tôi, nhếch mép cười:
- Không sợ, nhưng buồn. Chả thế chưa kịp mãn tang đã lấy anh chàng Tốn.
Các bà nhìn mẹ tôi cười ré lên. Rồi bà nọ đấm lưng bà kia thùm thụp như các cô gái.
Hai gò má mẹ tôi đỏ rực lên như say trầu.
Tôi hỏi:
- Anh chàng Tốn ấy là ai hở dì?
- Là bố mày. Rõ con nhà vô phúc
- Không.
Tôi hét lên, đâm đầu chạy ra vườn. Người ta đã trêu tôi, người ta đã sỉ nhục tôi. Tôi,
đứa con không bố, đứa trẻ vô thừa nhận. Tôi khóc nức nở trong góc vườn, giữa một
cây ổi già và một bụi dứa gai. Rồi mẹ tôi tìm tôi, dắt tôi vào nhà. Đám láng giềng đã
về hết. Trên mảnh sân gạch chỉ có hoa khế rụng. Mẹ múc nước giếng trong chiếc bể
vỡ, gạn từng gáo đổ vào thau đồng, rồi rửa mặt cho tôi. Tôi nức nở mãi. Tia mặt trời
đốt lửa trong các vòng sóng nước và trong mắt tôi. Tôi ngủ vùi. Hôm sau, lúc rạng
đông, những con chim hót líu lo trên ngọn tre và khắp khu vườn. Gió mát thổi tan
cơn ám ảnh, người bán kẹp mạch nha rong cất tiếng rao dẻo quẹo ngoài đường thôn:
-Ai mạch nha, mạch nha đây ây ây...
Mẹ tôi mua cho tôi hai que kẹo lớn, ôm tôi vào lòng và thủ thỉ kể chuyện anh chàng
Tốn. Năm ấy, 9 tuổi tròn, tôi mới biết bố tôi là ai...

Trong cái năm đầu tiên sống một mình, khi ông bà ngoại đều mất và cậu Chính lên

5
Những Thiên Đường Mù

chiến khu, mẹ tôi đã phải cắn răng lại chống đỡ nỗi cô đơn, ba gian nhà trên, ba gian
nhà dưới trống huyênh. Những quét cho sạch nhà, sạch sàn đã mệt. Lại còn khu
vườn đầy cỏ, cứ dọn góc này góc kia đã um tùm. Trưa hè, trong không gian im vắng
tù đọng chốn làng quê, tiếng chim tu hú cất lên cũng khiến cô gái trẻ giật thót tim
hoảng sợ. Vào nhà, ra sân thui thủi một bóng theo. Ngọn lửa rơm liếm lem lém
quanh cái niêu đồng một. Vại dưa chua mốc meo bốc mùi trong nhà, một con cá kho
hay nửa quả trứng luộc đặt trên cái đĩa nhỏ bằng lòng tay. Bắt canh leo pheo dăm
ngọn rau mồng tơi hay rau dền hái ven bờ rào. Đôiï khi, vừa nhìn ngọn lửa rơm vừa
ứa nước mắt thương thân, mẹ tôi lắng nghe tiếng láng giềng gọi nhau sửa soạn bửa
cơm chiều, nào giã cua nấu riêu, nào luộc khoai ăn thêm buổi tối, nào rang thóc làm
cốm, nào nầu chè lam cúng rằm tháng giêng. Cô gái 19 tuổi không cắt nghĩa được
những tai họa giáng xuống đời mình. Thêm vào đó, bọn trai làng nghịch tặc lẫn đám
ông lý ông nhiêu háo sắc dòm ngó như quạ vào chuồng lợn, Tối tối, mẹ tôi khóa chặt
các cửa, rồi thắp ngọn đèn hoa kỳ hạt đỗ, nằm chờ cho tới sáng. Lúc ngủ dược đã
vậy, lúc thao thức chỉ còn biết tặp ba nén nhang khấn tổ tiên, xin các người che chở
cho cảnh sống cheo leo, như một mình neo con thuyền trong gió dữ. Đúng lúc ấy,
mẹ tôi đã gặp bố tôi. Anh chàng Tốn là hương sự mới được bổ về làng. Trước, bố tôi
dạy học trên phố huyện. Nhưng vì bà nội tôi bị tê thấp, bại tiệt một chân nên ông xin
đổi về xã để hầu hạ mẹ già. Mẹ tôi 20, bố tôi 26. Mẹ tôi xinh gái nhất vùng, bố tôi
cũng là người khá kẻng trai, lại có học vấn. Tình yêu của hai người nảy nở nhanh
chóng và tăng trưởng với một tốc độ mà dư luận xã hội không chấp thuận. Theo tục
lệ, mẹ tôi phải để tang ba năm, và trong thời gian ba năm ấy, không có quyền yêu
đương, trang phục lòe loẹt tham dự hội hè. Bố tôi đã vượt qua những lời đàm tiếu, sự
khinh thị, thái độ diễu cợt hay châm chọc của dân làng để cưới mẹ tôi. Người ta mỉa
mai:
- Anh chàng Tốn theo Tây học. Bên Tây, chỉ chịu tang một năm thôi.
- Mình có phải giống mắt xanh mũi lõ đâu? Rõ quân xanh như lá bạc như vôi, bước
qua mồ mả ông bà mà không biết nhục.
- Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục của tổ tiên.
- Các ông các bà cứ chờ đấy mà xem. Đã trái lệ ắt sinh sự chẳng lành. Rồi chúng nó
cũng chẳng ăn đời ở kiếp được với nhau đâu.

Lời tiên tri độc ác của họ đã thành sự thực. Nhưng không phải vì bố mẹ muốn chia lìa
nhau. Thời gian đầu, hai người đã thực sự hạnh phúc. Bởi vì, trong câu chuyện kể, dù
sầu thảm đến đâu, tôi cũng thấy mắt mẹ ánh lên ánh hồi quang nồng nàn, thắm
thiết của một tình yêu không thể đo đếm, không thể tìm kiếm lại, thứ tình yêu chỉ có
một lần... một năm hai tháng sau ngày bố mẹ cưới nhau, hòa bình lập lại. Bộ đội ta
từ chiến khu Việt Bắc kéo về. Khắp nơi vang khúc hát mừng giải phóng, khút hát yêu
hòa bình, khúc hát của đồng lúa và rừng xanh. Mẹ tôi mừng mừng tủi tủi, hồi hộp
chờ đứa em trai duy nhất. Từ hồi cậu đi, biệt vô âm tín, tịnh không có lấy một dòng
thư nhắn về. Có người làng đi buôn thuốc Tây ngược lên vùng Trại Cờ gặp cậu, bảo
cậu khỏe mạnh lắm, đã lên chức trung đội trưởng rồi. Người khác lại quả quyết thấy
cậu sốt rét, da vàng khè như nghệ, chăn mấy con ngựa cho một đại đội thông tin.
Mà cậu không đủ quần áo rét chỉ có một manh trấn thủ giữa tiết tháng Chạp, run lẩy
bẩy như người nghiện thiếu thuốc. Mẹ tôi khóc hoài, giục bố tôi lần tìm khắp các đơn
vị bộ đội trong tỉnh. Bố tôi cũng cất công đạp xe khắp nơi, nhưng không bắt được tin.
Rồi, bỗng dưng nửa năm sau ngày giải phóng, cậu tôi đeo ba lô lùi lũi bước vào nhà.

Mẹ tôi đang dỡ khoai sọ trong vườn, ném cây cuốc ngồi thụp xuống khóc. Ai gọi mẹ
tôi cũng không đứng được lên. Bố tôi dạy học trở về, chào cậu em vợ, đun nước pha
trà ngon cho cậu uống. Nhưng đáp lại những săn sóc nồng nhiệt của bố tôi, cậu
Chính chỉ hờ hững gật đầu, hoặc ầm ừ trong miệng. Thái độ của cậu vừa trịch
thượng, vừa có gì rất khó hiểu. Bố tôi ra vườn gọi mẹ tôi vào rồi bỏ sang nhà mình.

6
Những Thiên Đường Mù

Nhà bà nội tôi cách đấy một vườn cau với hai hàng dậu trồng hoa móng rồng. Đứng
ở nhà này, có thể gọi vóng sang nhà bên kia. Bà sống với cô Tâm, chị ruột bố tôi.
Côtôi 27 rất đẹp nhưng có học lại lạnh tính nên chưa lấy được chồng. Cô vừa làm
ruộng vừa nuôi tằm. Bà tôi cơm nước. Bố tôi đã ở bên ấy luôn cho tới ngày bỏ quê đi.

Về phần mẹ tôi. Khi bố tôi đi khỏi, cậu Chính đã bảo mẹ ngồi xuống chiếc tràng kỷ
đối diện với mình và nói:
- Chị Quế, từ nay về sau chị không được gặp mặt, không được nói năng, không được
trao đổi bất cứ việc gì với tên Tốn.
- Tên Tốn? Sao cậu lại gọi anh ấy như thế?
- Vì anh ta là phần tử bóc lột.
- Bóc lột?
- Gia đình anh ta thuộc thành phần địa chủ, kẻ thù của nông dân. Chị Quế, trước khi
về nhà, em đã được trên giao nhiệm vụ đội trưởng đội cải cách ruộng đất. Em đã họp
dự thảo từ cấp huyện xuống xã, và đã sơ bộ quy định thành phần cho các nhóm
trong làng. Gia Đình tên Tốn có ruộng cho cấy rẽ, có bóc lột công nhân. Theo tình
hình được cung cấp, hắn thuộc đối tượng phải đem đấu tố.
- Đấu tố là thế nào hở cậu?
- Là buộc kẻ có tội phải cúi đầu nhận tội trước bà con nông dân
Mẹ tôi run rẩy nói:
- Từ xưa tới nay gia đình anh ấy vẫn ăn ở hiền lành, chưa làm điều gì độc ác . Cậu
biết đấy, ở làng ai xấu ai tốt xóm giềng đều biết cả.
Cậu Chính nghiêm giọng bảo:
- Chị không được để kẻ khác lung lạc. Chị phải giữ vững lập trường giai cấp. Chúng
ta phải đánh đổ bọn địa chủ cường hào giang ác để đem lại ruộng đất cho bà con
nông dân. Nếu không nghe em, chị sẽ bị đào thải khỏi đội ngũ, chị sẽ chịu các hình
thức kỷ luật của cách mạng.
Mẹ tôi òa khóc:
- Nhưng xưa nay chị và anh vẫn sống êm thấm với mọi người. Anh Tốn tốt nhịn lắm.
Hồi anh chị cưới nhau ai mắng chửi, mỉa mai anh ấy đều nuốt giận làm lành. Chị
không biết anh bóc lột ra sao. Mà chị cũng chưa nghe những điều em nói bao giờ.
- Chưa ai nói thì bây giờ Đội cải cách nói, cách mạng nói. Chị Quế, chị phải nghe em.

Cuộc đối thoại ấy diễn ra trước mặt một số bà con thân quyến. Ai nấy sợ xanh mặt,
lặng lẽ ra về. Mọi người không hiểu vì sao bà lão Tam, chủ nhân một mẫu 8 ruộng
hương hỏa lại trở thành kẻ thù với mình, thành giai cấp bóc lột phản động. Cô Tâm
coi sóc số ruộng ấy. Mùa cày, cô thuê thợ cày. Mùa cấy cô ra đồng cấy. Mùa gặt, cô
quần quật vừa làm vừa lo cơm nước cho tốp thợ gặt thuê từ dưới thôn Đông, thôn Sở
lên. Trong làng, không thiếu người gia cảnh tương tự như thế. Họ là đám người cốt
lõi của làng quê. Những kẻ yêu nghề nông như chính sinh mạng của mình. Tháng
Giêng, tiếng trống hội hè vang lên khắp các sân đình, lũ trẻ mặc quần áo mới chạy
chộn rộn các ngả đường thôn. Các đám rước và các gánh hát thi nhau dựng rạp,
hòng moi những đồng xu nóng ấm thắt kỹ trong hầu bao dân quê. Đám người này,
nửa con mắt ngó lên sân diễn, nửa con mắt kia đã liếc ra cánh đồng, nơi những vạt
lúa xanh non phủ kín mặt ruộng. Tay họ vục trong bùn, cảm thấy độ ấm lạnh của
đất, độ tan nguyễn hay thô cục của các rạch cày. Mùa hạ, trong các cơn gió chạy rần
rật qua mái tranh, họ đoán trước được tai họa hay ân huệ của trời đất. Và từ tiếng
sấm đầu tiên của cơn mưa đầu tiên, họ đã biết mình phải vác cuốc ra be bồ hay xáo
xới các ruộng màu ngoài bãi sông. Tháng Tám, đêm thu trong vắt, tiếng chày giã
cốm vọng từ các mảnh sân qua đường làng, tiếng cười đùa chí chóe của lũ đàn bà
con gái làm không gian nở bung ngàn đóa hoa trắng, mùi hoa móng rồng mê mệt du
níu các vườn cây. Lúc đóù, họ nhìn trăng, quầng đỏ hay tán bạc màu mây xanh leo
léo oan nghiệp kia báo trước hiểm nguy gì? Tháng Chạp, những đêm đông tê tái, họ

7
Những Thiên Đường Mù

có thể tỉnh dậy giữa lúc giấc ngũ đang nồng, và lặn khỏi giường, chạy ngay tới
chuồng trâu, để đem thêm một ôm rơm, hay đốt lên một đống lửa. Nghề nào cũng
có những người tận tụy với nó, yêu mê nó. Tình yêu đó đôi lúc không cắt nghĩa được.
Nhưng chính nhờ tình yêu ấy mà nó tồn tại.

Phải, mẹ tôi đã không hiểu được tai họa giáng xuống đầu mình. Mẹ tôi khiếp sợ, như
nhiều người khác đã khiếp sợ vào lúc đó. Cậu Chính đã triển khai đội cải cách rất
nhanh. Bà nội tôi và cô Tâm chịu quỳ trước sân đình, đấu gục xuống , hai tay vòng
trước ngực. Trước mặt hai người là đám dân làng đốt đuốc ngồi. Họ có nhiệm vụ lắng
nghe những lời đấu tố. Và mỗi khi có tiếng hét bật lên: “Đả đảo địa chủ.” họ có
nhiệm vụ giơ nắm tay lên hô thật to: “Đả đảo! Đả đảo...”

Hô càng to càng chứng tỏ tinh thần cách mạng vững vàng, chứng tỏ lòng căm ghét
giai cấp bóc lột. Mà trong đám đông ấy, không ít những nông phu có ruộng đất và
yêu ruộng đất với tình yêu máu thịt, nhờ kinh nghiệm lao động và tính cần mẫn mà
có được một nóc nhà, một con trâu với vài ba vựa thóc. Chỉ cần bị một lời tố giác
điêu toa, họ dễ dàng nhảy từ địa vị của người ngồi tham dự xuống đáy hố của kẻ bị
kết án. Tai họa, nỗi nhục nhã, cái chết treo lơ lửng tựa một trái cây chín rục trên
cành cao, không biết nó rụng xuống lúc nào. Bởi lẽ đó, trong tiếng hô rầm rập của
đám dân làng, không ít những tiếng gào để che lấp cơn sợ hãi, một cách tự trấn an
tinh thần, một cách cầu lợi thấp hèn, cái thấp hèn mà con người khó tránh khỏi trong
những cơn giông tố. Mẹ tôi kể rằng trong đám dân làng có hai kẻ được liệt vào loại
cốt cán đã đấu tố bà nội tôi và cô Tâm. Người thứ nhất là một gã du thủ du thực,
sống lang bang hết làng này qua làng kia, suốt mùa đông tới mùa hè đều đánh một
bộ ka ki vá víu, bẩn thỉu. Nghe đâu gã đã có thời đi lính. Sau rồi nghiện rượu, gã
được xuất ngũ trước thời hạn. Gã cao lớn, khá đẹp trai, nhưng lười. Người ta chỉ thuê
gã làm những việc vặt trong nhà như dọn dẹp mâm bát, coi sóc sân phơi lúa hoặc lật
lá thuốc, hù dọa bọn trẻ con ăn trộm mùa quả chín. Gã có tài pha trò hầu chuyện
mấy lão chức dịch trong làng, xách thúng đi chợ hoặc làm gà, pha thịt cho mấy bà
địa chủ giàu có, gã có thể ngồi đánh tổ tôm suốt đêm, xoa mạt chược suốt đêm như
các ông chủ, bà chủ, có thể tán tỉnh các cô thợ gặt từ đầu mùa tới cuối mùa không
chán, càng tán càng xôm nhưng chỉ cần cuốc một luống khoai, gã đã thở hồng hộc,
mồ hôi toát đầm đìa khắp thân mình vạm vỡ như một võ sư chính cống. Người ta vẫn
thì thầm với nhau rằng gã đã ngủ khắp lượt với bà lý Tiềm, bà tống Hớn, bà nhiêu
Lan, bà cai Hồng... Còn mấy bà chủ ruộng góa chồng thì có các thêm vàng cũng
không dám cho hắn vào nhà vì sợ ễng bụng ra. Không chồng thì biết đổ nọc cho ai?

- Bích, lại đây mày.


Đám đàn ông trong làng thường gọi hắn thế, dù hắn ít hơn hoặc nhiều hơn họ một
chục tuổi. Hắn không được định giá theo bảng giá trị chung của dân làng. Hắn có cái
tên đàn bà: Ngọc Bích, không hiểu cha mẹ hắn đặt từ thuở lọt lòng hay hắn ăn mày
ở đâu trong đời phiêu bạt. Người ta cũng không biết cha mẹ hắn là ai. Hắn là dân cư
ngụ.
- Bích, kể chuyện đi.
- Thưa vâng, chuyện gì bây giờ?
- Chuyện sờ vú sư cụ.
- Hi hi... Cho xin một chén đã.

Từ lão chánh tổng dâm ô 60 tuổi đến gã trai làng phóng đãng vừa có ria mép đều sai
khiến được gã theo cách đó. Bỗng dưng, khi được liệt vào thành phần cố nông, đối
tượng bắt rễ của đội cải cách, gã liền biến thành kẻ được trọng vọng. Thay vì nói
chuyện phiếm mua vui cho cánh mày râu, gã dạy họ phải giác ngộ giai cấp, kiên
quyết đấu tranh với bọn địa chủ bốc lột, nêu cao tinh thần chiến đấu. Thay vì ngồi

8
Những Thiên Đường Mù

bệt xuống ngạch cửa, chìa bàn tay cáu ghét ra xin chén rượu, hắn ngồi chồm hỗm
trên tràng kỷ, nhìn chòng chọc vào mặt những ai bị đấu tố, la lối, sỉ nhục họ với vẻ
hả hê bèo bọt. Thứ hả hê của loài cỏ leo.

Nhưng thôi, hãy nhắc tới nhân vật thứ hai, đó là một mụ góa, một người đàn bà nở
nang phốp pháp từ mặt mũi tới thân hình xộc xệch cả áo quần lẫn tâm tính. Mẹ tôi
kể rằng mụ khá xinh. Tên mụ là Nần. Da trắng nhây nhẫy, có phơi nắng nửa năm
cũng không đen. Hồi chồng mụ còn sống, cứ năm ngày mụ bị ba trận đòn vì tội ăn
cắp vặt. Ăn cắp từ trong nhà qua hàng xóm. Từ dăm quả cà, ổ trứng gà đang ấp, mớ
ngô, cho tới con cá diếc. Mụ có tật tham ăn. Bún riêu cua, một lúc và lùa sáu bát.
Bánh đúc hành mỡ, quẹt ngang miệng cũng bốn đĩa lật. Bánh da kê, người ta ăn hết
một góc thì mụ phải làm cả chiếc mới đã nư. Cứ quỳ gối xuống hàng quà là mụ quên
tất tần tật: cả chồng, cả con, cả hàng xóm láng giềng. May mà mụ chỉ đẻ mỗi một
mống con gái. Người ta bảo mụ ăn quá nhiều, mỡ lấp tịt cả trứng nên không sinh nở
được thêm. Giá đẻ nhiều, chắc cả lũ con mụ chết đói dở. Chồng mụ trước kia đăng
lính, sau bị sa hố gãy dóng xương chân nên được về làng. Ông ta vốn người cù mì
như cục tính. Suốt ngày lặn lội ngoài ruộng, ngoài bãi, lúc vác cày dong trâu về nhà
thấy mụ vợ nằm lù lù trên giường ngáy, cơm nước chưa thổi, ông ta liền vác đòn tre
phang. Ngày mùa, thóc tuốt về đổ vựa lớn, cót con nhưng chưa qua tháng đã thấy
vơi như bị ma làm phép. Ông chồng đầu tiên còn hồ nghi, sau vài bận rình rập mới
mục kích vợ xúc thóc trộm bán lấy tiền ăn quà. Ông ta lại nện cho mụ một trận thừa
sống thiếu chết rồi thuê người đóng một chiếc rương gỗ lớn bằng cả gian nhà ngang
chứa thóc. Cái rương ấy được khóa chặt bởi một ổ khóa bằng gang. Hết đường xơ
múi, mụ Nần vác rá sang buồng hàng xóm. Từ láng giềng gần tới bà con xa. Không
biết bao nhiêu bận lại bắt quả tang, mụ phải quỳ xuống van lạy. Rồi có lúc ông
chồng phải tới tận nơi đem tiền chuộc vợ về. Đòn đánh như đập đất nhưng mụ vẫn
không chừa. Thoạt tiên, còn là trộm thóc, sau tới cả con cá, lá rau. Người làng vẫn
kể đi kể lại một giai thoại về tính tham ăn của mụ:

Mùa đông, buổi sớm trời rét như cắt tai. Chưa lăn xuống đất, mụ đã kêu đau bụng.
Ông chồng chẳng nói chẳng rằng vào buồng xúc gạo nếp nấu nồi cơm nếp đậu đen.
Xong xuôi, ông gọi đứa con gái dậy ăn rồi cha con chuẩn bị cuốc xáo ra bãi. Trước
khi đi, ông ta dặn vợ:
- Nửa trưa, hễ bớt đau bụng thì ngồi dậy nấu cho bố con tôi bát chè. Đường tôi để
trong chạn.
Mụ Nần nhăn nhó:
- Cứ đi đi. Tôi xem bụng dạ thế nào đã.

Chồng con vác cuốc đi khỏi ngõ, mụ nhỏm dậy, xuống bếp vét sạch nồi cơm nếp.
Xong, mụ sang nhà hàng xóm đánh võng, tán chuyện. Chùng non trưa, ngon ngót
bụng, mụ về nhà cạo khoai từ nấu chè. Nồi chè chín, đặc sánh như mỡ, múc vừa đầy
bốn bát. Thoạt tiên, mụ Nần ăn hai:
- Để cho bố con mỗi người một bát.
Rồi mụ đi vo gạo nấu cơm. Cơm cạn, vùi trấu xong mụ ra vườn hái rau dền nấu canh
trứng cáy. Đi ra, đi vào, nhìn hai bát chè, không nhịn được cơn thèm, mụ lại tặc lưỡi
húp bát nữa:
- Thôi, hai bố con nó chia nhau một bát cũng được. Đi ngoài bãi về lạnh bụng ăn của
ngọt dễ giở chứng.

Nồi canh ra đã chín, mấy con cá mắm khô cũng đã nướng xong, mụ Nần sắp bát đũa
vào chiếc mâm gỗ, bưng lên nhà. Còn bát chè mụ đặt tít trên bàn thờ để khỏi nhòm
ngó tới. Nhưng chồng con mụ ham việc nên quá trưa mới về. Trong khoảng thời gian
đó, mụ hết ra ngõ ngóng lại vào nhà cởi áo bắt rận. Bát chè đặt tít trên cao không

9
Những Thiên Đường Mù

nguội đi mà cứ nóng hôi hổi trong cơn thèm. Mụ không chịu nổi. Mùi thơm của nó, vị
ngọt của nó, hương vị bùi ngậy của nó khiến các giác quan mụ bứt rứt, không yên.
- Ôi dào, ăn nốt cho gọn chuyện. Lần khác, bố con nó chén hẳn một nồi.

Người đàn bà tặc lưỡi lần thứ hai. Ông chồng về biết chuyện, lẳng lặng ngồi ăn cơm.
Nhưng đứa con gái mới 11 lại bô bô kể cho lũ trẻ trong làng. Hơn nửa năm sau, gia
đình mụ có giỗ, Ông chồng mời anh em, họ mạc tới đông đủ vẫn chưa thấy vợ đi chợ
về. Xôi dỡ rồi, gà giết rồi chỉ còn thiếu gia vị và các thức nấu. Từ nhà lên chợ huyện
những tám cây số rưỡi. Người chồng đành nhờ chú em trông nhà rồi ba chân bốn
cẳng chạy té lên phố huyện. Tới chợ, mồ hôi tháo ướt áo quần, ông ta sục tìm khắp
nơi. Cuối cùng, tới dãy hàng quà, ông tathấy mụ đang quỳ gối trước chỗ bánh khúc.
Bên cạnh, chiếc rổ xề đựng các thứ đồ lề và thực phẩm. Ông ta không nói được câu
gì, chỉ hộc lên một tiếng rồi ngã lăn ra. Mọi người xúm lại. Lúc ấy, mụ Nần mới
ngẩng được mặt lên. Chồng mụ đã cấm khẩu, mặt mũi tím đỏ như cổ con gà bị thít
trước khi cắt tiết. Khi người ta võng ông ta đến trước cổng nhà thương thì ông ta trút
hơi thở cuối.

Chồng chết, mụ Nần bán bớt ba gian nhà ngang để lấy tiền làm ma. Số thóc trong
rương đủ nuôi hai mẹ con tới mùa sau. Nhưng vì mụ vẫn không chừa được tật tham
ăn. nên mới được nửa mùa, mụ đã vét thúng thóc cuối đem bán. Đứa con gái 11 tuổi
không thể thay cha cáng đáng việc nhà. Còn mụ, vốn quen chơi hơn quen làm nên
càng ngày càng sa sút. Vừa giỗ đầu cho chồng xong, mụ bán nhà bán đất, dọn tới ở
một mái lều ngoài trại, cách làng non cây số. Qua năm, mụ giao đứa con gái cho một
bà con đưa lên tỉnh. Con bé đã ra đi không nhỏ một giọt nước mắt. Nghe đâu nó làm
công cho một hàng bán bánh cuốn. Vì cơ chỉ, nên nó cũng dành dụm được món tiền
còm. Co lần, quá túng đói, mụ Nần lên tỉnh tìm con, nhưng đứa bé trốn không ra gặp
mẹ.

hai nhân vật đó, gã Bích và mụ Nần, không ai trong làng không biết. Chẳng hiểu vì
cớ gì, cậu tôi lại xếp vào đội ngũ cốt cán củagiai cấp nông dân. Chúng ngồi lên hàng
ghế danh dự, đập bàn, quát:
- Mụ Tam, mày có biết tao là ai không?
- Thưa có, ông là ông Bích.
- Con Tâm, con địa chủ gian ác, mày có biết tao là ai không?
- Thưa có, bà là bà Nần.

Bên tay trái bà nội và cô tôi, những người khác quỳ gối chờ tới lượt họ. Cứ mỗi lần
tiếng hô: “Đả đảo...” cất lên, họ lại run bần bật. Chỉ cô Tâm không hề run rẩy. Mẹ tôi
nói rằng cô có cặp mắt tượng, trơ trơ cùng thế gian. Lần đấu tố thứ hai, bà và cô tôi
phải đứng đưới một cái hố sâu chừng nửa thước. Đứng ở dưới đó, con người có cảm
giác mình là một sinh vật thấp hèn, tủi nhục, bị đầy ải. Ngay những người đàn ông lì
lợm rơi vào cảng ngộ ấy cũng phải gục. Bà tôi ốm nặng rồi chết. Chỉ cô tôi là thản
nhiên.

Tôi hỏi mẹ:


- Còn bố con thì sao?
- Bố con không như cô Tâm, bố con không chịu được nhục.

Mẹ tôi trả lời, với một giọng buồn, chẳng ra chê trách, cũng chẳng ra thán phục. Mẹ
kể rằng bố tôi đã đau khổ ngay từ lần đầu tiên cậu Chính tới nhà bà nội tôi, chỉ vào
mặt ông mà nói:
- Trước kia, anh với chị Quế là vợ chồng. Bây giờ, anh là kẻ thù giai cấp, không có
quyền đi lại với chị tôi. Nếu anh còn bén mảng tới nhà chị ấy, tôi sẽ ra lệnh cho du

10
Những Thiên Đường Mù

kích bắt trói.

Cậu nói xong, tiếng trống cà rùng nổi lên, dinh tai nhức óc. Rồi tiếng hô uy hiếp vọng
vào:
- Kiên quyết đánh đổ địa chủ Đỗ thị Tam
- Kiên quyết đánh đổ...
Cậu Chính nhìn bố tôi, hất hàm:
- Nghe rõ chưa?
Bố tôi không trả lời. Cậu quát:
- Đội hỏi, có trả lời không?
Mặt bố tôi tái xanh, mồ hôi và đầy hai thái dương nhưng vẫn im lặng. Lúc ấy cô Tâm
bước lên:
- Bẩm thưa đội, bây giờ chúng con biết thân biết phận, dù Đội không ra lệnh, người
nhà con cũng không dám chơi trèo.

Cậu Chính là đội trưởng đội cải cách. Lúc ấy, đội cải cách là Thượng đế, là Trời. Câu
trả lời của cô Tâm thỏa mãn lòng tự ái của cậu. Cậu đi ra. Nhưng theo lệnh của cậu,
đoàn thiếu nhi còn ở lại, hô khẩu hiệu, đánh trồng thị uy, và đồng thanh hát. Bài hát
thế này:

Cắt đứt là cắt đứt


Dứt khoát là dứt khoát
không vương vấn giai cấp dịa chủ...

Bài ấy mới hợp tình cảm của bố mẹ tôi làm sao? Dăm hôm sau, vào một đêm mưa,
cô Tâm thu xếp cho bố tôi trốn khỏi làng:
- Đi đi, em không chịu được nhục đâu. Muốn sống qua lúc này, phải chịu nhục. Đừng
lo gì cho chị cả. Rồi trời khắc có mắt thôi.

Giá người khác như thế, ắt bị truy lùng khốn khổ, nhưng cậu Chính chỉ tra hỏi cô
Tâm qua loa rồi lờ đi. Cậu bảo mẹ tôi:
- Thằng ấy đi khuất mắt càng tốt cho chị. Từ đây, chị yên tâm làm ăn. Gánh hàng
xén đem bỏ đi. Cặp bồ để mà dấm chuối. Ruộng Được chia rồi, nay mai nước mình sẽ
tiến ngang với Liên Xô, mùa cày có máy cày, mùa gặt có máy liên hoàn gặp đập,
không ai phải mó tay vào bùn đất.

Mẹ tôi cúi đầu nghe cậu nói, nước mắt rơi lã chã hai hàng. Trưa hôm sau, mẹ tôi vác
giỏ ra đồng móc cua, chờ cô Tâm đem quần áo ra đầm giặt. hai người nói chuyện với
nhau, một người cúi gầm mặt xuống bờ ruộng giả bộ móc cua, một người vỗ đập
quần áo:
- Cô Tâm, nhà tôi đi đâu thế?
- Thưa bà nông dân, chúng con không biết.
- Tôi xin cô, tôi có làm gì nên tội đâu.
- Thưa bà, con biết bà là chị ruột đội Chính. Đội là Trời, bọn địa chủ chúng con là sâu
bọ.
- Trăm lạy cô, ngàn lạy cô, đừng dày vò ruột tôi nữa. Chồng tôi đi đâu?
- Chị đã có em, chị khỏi phải có chồng. Người nhà tôi không chịu được nhục. Nó nhất
thiết phải bước khỏi đây, dù núi cao hay sông sâu, dù kiếm ăn nơi đồng chua nước
mặn hay sống nơi lam sơn chướng khí cũng còn hơn cảnh đọa đầy này.
Nói xong, cô Tâm cắp rổ quần áo ướt, tong tả về làng. Mẹ tôi cứ cúi khom lưng
xuống ruộng, tay vẫn ngâm trong hốc cua, nước mắt mồ hôi chan chứa.

Tối hôm đó, cậu Chính hỏi mẹ tôi:

11
Những Thiên Đường Mù

- Trưa nay chị gặp con Tâm?


Mẹ tôi cãi:
- Ai bảo cậu thế?
Cậu đáp:
- Anh em du kích theo dõi.
Mẹ tôi nói:
- Tôi đi móc cua.
Cậu bảo:
- Không ai móc cua lại đứng mãi một góc ruộng. Chị đừng cãi.
hai người lặng im một lát, rồi cậu bảo:
- Vì ba đời nhà ta làm thuê bốc thuốc, không có một tấc đất nên tôi mới được làm đội
trưởng. Nếu chị liên hệ với bọn địa chủ, có đứa báo cáo lên cấp trên, sẽ ảnh hưởng
uy tín của tôi.
Mẹ tôi lại bật khóc:
- Tôi khổ quá.
Cậu Chính quát:
- Chị không được nghĩ tới cá nhân mình. Chị phải nghĩ tới quyền lợi giai cấp.

Nói xong, cậu bước ra khỏi nhà. Mẹ tôi quằn quại, rên rỉ một mình trong gian nhà
trống vắng, với cây đèn hoa kỳ trên bàn thờ gia tiên. Từ dạo đó mẹ tôi càng ngày
càng gầy rộc, hai hố mắt trũng sâu. Đêm đêm, mẹ tôi thờ thẫn ra vườn, đến từng
gốc khế, bụi móng rồng, từng gốc ổi, gốc sung thì thầm. Phải chăng mẹ trò chuyện
với những vật vô tri vô giác ấy về tình yêu của mình, về người đàn ông duy nhất đã
đem tới nguồn vui sướng và tuổi xuân, về nỗi oan khuất không thể bày tỏ. Người
làng thì thầm là mẹ tôi mắc bệnh tâm thần. Cậu Chính giận lắm:
- Người làng xì xào bàn tán. Họ bảo chị còn thương tiếc thằng địa chủ Tốn. Rằng vì
thế mà chị dở điên, dở dại, suốt ngày nói chuyện một mình.
- ...
- Chị có biết rằng chị đang giết hại uy tín của tôi không? Khắp vùng này, chẳng có
đội nào tiến hành cải cách triệt để bằng đội của tôi. Không khéo vì chị, hóa thành
công cốc. Chị Quế, hãy nghe em. Chị em mình vẫn là chị em, trước sau như một.
- ...
- Chị Quế, bố mẹ chết chỉ còn hai chị em mình. Em không thương chị thì thương ai?
Chị còn trẻ, được nết được người, thành phần cơ bản, có nhà có ruộng, lấy đâu cũng
được người tử tế. Chị nghĩ đi, một đằng tương lai sáng sủa, được cách mạng dìu dắt,
một đằng bị đào thải khỏi hàng ngũ, đứng trong đám kẻ thù nhân dân.
- ...
- Em nói lời cuối cùng, chị hãy tỉnh ngộ. Vài hôm nữa lên tỉnh em sẽ giới thiệu chị với
anh Nham, cấp trên của em. Hồi ở chiến khu, anh ấy là đại đội trưởng thông tin của
tư lệnh mặt trận.

Trước những lời lẽ ấy, mẹ tôi lặng im. một đêm tháng Chạp, mẹ cuốn bọc quần áo rời
khỏi làng. Cậu Chính cho người dò xét, không ai biết. Tra hỏi cô Tâm, cô một mực
bảo rằng không liên quan. Cuối cùng cậu tuyên bố với dân làng tằng mẹ tôi mắc
bệnh thận, phải lên thành phố chữa.

Nửa năm trôi qua, cậu Chính cùng đội cải cách rút khỏi làng. Căn nhà được khóa lại
bởi một ổ khóa gang to tướng, chìa đem gửi một người bà con gần gụi. Trẻ con
nghịch, đem đất sét trát kín ổ khóa, rồi vẽ lăng nhăng nhảm nhí lên những cánh cửa
vá các bức tường vôi. Lá tre rụng lấp đầy chân tường. Màng nhện bắt đầu chăng lớp
mỏng lớp dầy hai bên đầu hồi. Lúc ấy, mẹ tôi về, thất thểu như bóng ma. Làn da
hồng mịn màng xưa kia đã sạm. Những nếp nhăn mờ in trền gò má và sơn căn, giữa
hai tràng mày cong vút. Đêm ấy, chòm xóm kéo sang thăm hỏi. Mẹ tôi ngồi vòng tay

12
Những Thiên Đường Mù

ôm gối, nước mắt thánh thót rơi. Thói thường, người làng hay tọc mạch. Họ nhất
thiết dò tìm điều muốn biết. Nhưng dạo ấy, họ không cật vấn mẹ tôi. Phần vì thương,
phần bị hút vào cuộc xáo động mới. Đội sửa sai về làng.

Giống như làn gió sung mãn thổi qua cánh đồng tiêu điều trơ gốc rạ, đội sửa sai
không thể cứu những cánh ruộng đã bị giông gió quần nát, những hạt thóc bị vùi
giữa bùn, nhưng ít nhất nó cũng quét được phần nào làn không khí hắc ám tù đọng
trong không gian. Thôn xóm vang tiếng cười, tiếng khóc, tiếng than hờ, lời kể lể
những nông nỗi oan khuất, tiềng hú gọi hồn những người thác oan. Đèn dầu cháy
thâu đêm trong các căn nhà. Người ta mở cửa thâu đêm, trò chuyện thâu đêm, họp
hành thâu đêm. Người ta đòi rạch mồm những kẻ tố điêu, đòi bồi thường danh dự,
đòi nợ máu. Kẻ bị căm ghét nhất là cậu Chính. Lúc đó, không rõ cậu ẩn núp nơi nào.
Chỉ mẹ tôi và căn nhà tổ tiên để lại là không thể chạy trốn cơn giông bão thù hận.
một tối đám người bị kích động tay thước tay dao đã ập tới cổng, đòi mẹ tôi ra đền
nợ máu thay đứa em trai. Họ nguyền rủa, đập phá, la hét. Mẹ run như giẽ núp trong
buồng. Buồng đã cài then. Cửa chính cũng đã khóa. Nhưng chắc chắn nếu đám người
kia lấn tới, chúng sẽ bị đập tan. Lúc ấy cô Tâm đã nhảy ra:
- Các ông các bà có điên không?
Cô nói, giọng lạnh lùng, đầy uy lực.
- Chỉ có lũ trẻ chưa ráo máu đầu mới xử sự như thế này, chỉ có kẻ mất trí mới giận
cá chém thớt. Người biết nghĩa không ai làm bậy. Hơn nữa... tôi hỏi, liệu em dâu tôi
có đáng chịu tội không? Các ông các bà mất ruộng, cô ấy mất chồng. Bây giờ sửa
sai, ruộng vườn còn đòi lại được, cô ấy tìm chồng mòn gót lại trở về tay không.

Cơn điên của đám đông dịu xuống. Cán bộ sửa sai tới trấn an. Người ta ra về. Cô
Tâm gọi mẹ tôi mở cửa. hai người đàn bà ông nhau khóc...

13
Những Thiên Đường Mù

Chương 3

Con tàu dừng lại. Ga đầu tiên trên chặng đường dài. Bảy giờ kém 15 phút. Người đàn
ông bên tôi giơ tay che miệng ngáp. Ông ta gấp cuốn sách trinh thám bỏ vào túi, rồi
đưa mắt liếc nhìn tôi như nhìn một con mèo ngồi trong góc đi văng.
- Ư hừm ừm...

Bỗng dưng ông ta hắng giọng một cách vô lý, rồi nhoài qua mặt tôi, áp chiếc mũi
khoằm vào cửa kính nhìn ra bên ngoài. Tàu dừng ở một ga tỉnh lỵ. Thành phố nhỏ
nhưng đẹp, êm dịu, u tịch. Các dãy phố đổ từ các ngọn đồi xuống lòng thung, nhà nọ
tiếp nhà kia chẳng nhà nào giống nhà nào nhưng tất cả đầu toát ra hương vị ngọt
ngòa của các mối tình xưa cũ. Các bức tường trắng diệp màu trong ánh trắng hoàng
hôn. Các rèm cây uốn lượn theo dọc phố, thếp vàng trên đỉnh các ngọn đồi và biến
màu tím thẫm dưới lòng thung, nơi phố chia thành nhiều hẻm con, khuất lấp trong
các khu vườn.

Người đàn ông ngắm nghía tỉnh lỵ, gật gù. Rồi ông ta khẽ nhếch lông mày, nheo mắt
nhìn tôi. Dường như ông ta muốn nói:
- Thế nào, thành phố của chúng tao đẹp đấy chứ, bé con?

Tôi im lặng, không đáp. Trong những trường hợp như thế, tôi thường không tìm cách
ứng xử khôn ngoan. Người khách đồng hành rút trong chiếc túi đi đường hai miếng
bánh mì kẹp thịt, chìa cho tôi:
- Làm một miếng cho vui, cô bạn đồng hành, cô cũng tới Matxcơva chứ?
Tôi đáp:
- Vâng. Cảm ơn ông, tôi chưa thấy đói.

Ông ta khẽ nhún vai, cười. Răng ông ta đã hỏng nhiều, cái trẩm bạc, cái thay răng
giả. Vì thế, nụ cười thật hài hước. Bất giác, tôi cũng cười theo. Người đàn ông bắt
đầu nhai bánh mì một cách ngon lành. Nhưng được vài ba miếng chợt ông ngừng lại.
Đoạn, lấy trong túi đi đường chiếc rađiô cát sét Nhật, ông ta thận trọng đặt lên bàn,
bật nút. Ngay tức khắc, giọng hát quen thuộc của Pugatrôva vang lên. Ông khách
đồng hành nhìn tôi. Cái nhìn thay cho câu hỏi:
- Thế nào, không làm cô khó chịu chứ?
Tôi nói:
- Tôi rất thích. Cám ơn.

Ông khách ngả người vào thành ghế, vừa nghe hát vừa nhai bánh mì, vẻ mặt ông
mãn nguyện. Nhưng tôi cũng không còn chú ý tới ông, cũng không chú ý tới con tàu
đã bắt đầu chuyển bánh, rời xa tỉnh lỵ. Giọng hát nổi loạn của người nữ ca sĩ mê
hoặc tôi. Có lẽ giọng hát ấy đã là một trong những niềm vui hiếm hoi ở xứ này, giúp
tôi chiến thắng nỗi buồn ly hương kể từ ngày bắt đầu cuộc đời công nhân xuất khẩu.
Lần đầu, tôi nghe giọng hát ấy ở nhà một tay nghiên cứu sinh trong thàng phố Kiep.
Ông ta là chú họ cô bạn cùng cư xá với tôi. Cô ta cao lớn, rắn rỏi, sống phóng đãng.
Cô có thể cùng một lúc chung sống với dăm bảy anh chàng, nhưng không bao giờ
nhớ tới họ.
- “Trong giấy mơ của tao không có chỗ dành cho gương mặt đàn ông.”

Cô thường tuyên bố với bọn tôi như thế. Vậy mà, tụi đàn ông lại lăn vào mê say cô
như điếu đổ. Đám con gái ghen ghét với cô thì thầm rằng cô học được cách làm bùa
mê của mấy mụ digan. Tôi, tôi biết cô rất đẹp. một vẻ đẹp tàn bạo, thiêu đốt. Những
người đàn ông bản lĩnh tầm thường không thể tránh khỏi ngọn lửa ấy. Nó biến họ

14
Những Thiên Đường Mù

thành tàn tro. Nhưng tôi cũng thích cô vì cô thành thực, thành thực ngay với tội ác
của mình, và hay bênh vực kẻ yếu. Mùa đông năm đầu tiên chúng tôi sang Nga, nỗi
buồn tê tái xâm chiếm tâm hồn. Căn buồng khu cư xá như cái hộp tẩm ướt những ý
nghĩ buồn tẻ, và quây bọc chúng tôi trong nỗi nhớ nhà. Cứ ngày nghỉ chúng tôi lại
tìm cách đi chơi. Ít nhất là để lẩn tránh bốn bức tường nhàm chán ấy và nghe tiếng
nói mới, nhìn gương mặt mới của người Việt. Lần đó, cô bạn dẫn tôi đến Kiep. Chú họ
cô đang nghiên cứu môn Điện cơ. Khu nhà đủ sinh viên các màu da, lúc nào cũng
rầm rập người đi lại, khuân vác hòm xiểng, hàng hóa. Lạc vào đó, khó mà tìm được
lối ra. May sao, vốn từ vựng tiếng Nga của tôi cũng khá. Hai chúng tôi kéo đi chợ,
mua thực phẩm và hoa quả trước khi tới nhà khách. Cô bạn tôi bảo:
- Các lão nghiên cứu sinh bao giờ cũng keo kiệt. Mình chuẩn bị trước vẫn tốt hơn.

Chú họ cô trạc ngoại 40, dáng vẻ nho nhã. Ông ta đang cạo chiếc móng giò, thứ thực
phẩm rẻ tiền cho nhữnng ai muốn dè xẻn từng côpếch. Nghe tiếng gõ cữa, ông ta vội
dúi vào xoong, đậy nắp. Cô bạn tôi cười khanh khách, lật nắp xoong bảo ông:
- Ôi dào ôi, có giấu diếm thì người ta cũng biết tỏng ra rồi. Các chú già trót đời cũng
không chừa được tính sĩ.

Chú cô ngượng gỏ mặt, nhìn tôi. Chừng như thấy tôi quê mùa, nhút nhát nên ông ta
yên tâm mỉm cười. Cô cháu bảo:
- Thôi dẹp cái móng giò ấy lại. Cháu mua thịt bò với gà làm sẵn rồi. Gà loại một của
Hung nhập sang đấy. Chú ở nhà nấu nướng với cái Hằng nhé. Cháu phải chạy sang
mấy đứa bạn tí xíu.

Nói xong, cô ném túi thực phẩm xuống sàn, vào phòng vệ sinh mở nước rửa, rồi lát
sau quay ra:
- Hằng ở đây, tao đi một lát thôi.

Không chờ tôi trả lời, cô xách ví đi luôn. Buộc lòng, tôi phải cùng ông chú họ cô
chuẩn bị bữa ăn. Cô bạn tôi đi một giờ, hai giờ, ba giờ đồng hồ sau cũng chưa thấy
về. Ông chú họ mời tôi ăn cơm trước. Ăn xong, trời mờ tối. Tuyết bắt dầu rơi. Từng
vệt trắng dài, cheo chéo ngoài cửa kính. Bóng mây xám tro bồng bềnh như một biển
hoàng hôn trải trên thành phố. Các cành cây đã rụng hết lá, trơ trọi vẽ những nét
gầy guộc, cọ quạnh. Giữa đám cây, một đốn đen vụt lướt qua. Chắc hẳn, đó là một
con quạ.

Tôi đang dán mặt vào khuôn cửa, chợt ông chú họ cô bạn nói:
- Uống một chút rượu cho ấm bụng nhé?
Tôi ngạc nhiên, chưa kịp đáp, ông ta đã hấp tấp mở tủ, lấy chai rượu. Rồi cúi xuống
gầm giường, ông ta kéo ra chiếc hòm gỗ, trong xếp đầy những bát chén sứ, ly cốc
bằng thủy tinh và pha lê. Những chiếc ly khua lanh canh. Rót hai chén ruợu, ông chìa
cho tôi:
- Uống đi, nào uống cho ấm. Tuyết lại rơi, trời rét ghê.
- Cảm ơn chú, nhưng cháu không uống được rượu nặng.
- Được, được... rượu nhẹ thôi. Mà có nặng thì trời rét này cũng chẳng thấm vào đâu.
Ống ấn ly rượu tận môi tôi. Lúng túng, nhưng quá nể nang, tôi đành uống một
ngụm.
- Ngụm nữa, ngụm nữa sẽ thấy người ấm lên.

Ông nài nỉ, dốc tuột cốc rượu vào họng tôi. một chất lửa lan truyền khiến toàn thân
tôi nóng rực. Mắt nhìn chao đảo, bập bênh. Ông chú họ cô bạn tôi uống cạn ly rượu,
rất nhanh. Rồi một ly nữa, ly nữa... Quái lạ, sao ông ta lại uống rượu sau bữa ăn? Tôi
ngơ ngẩn với nỗi băn khoan ấy. Người đàn ông ngồi xuống ghế, cười ngây độn. Rồi

15
Những Thiên Đường Mù

rất nhanh, ông ta nhào tới ôm chặt lấy tôi:


- Em, em... nào em...

Miệng ông ta nồng nặc mùi rượu và mùi tỏi. Cặp môi dày hé mở, thật ghê tởm.
Những ngón tay cứng như gọng kìm, xiết chặt vai tôi. Trong khoảnh khắc ấy, chợt
một nỗi căm hờn dâng lên, nghẹn ứ tim. Tôi tỉnh rượu tức khắc, tôi nhìn thấy từng
sợi râu, li ti trên mép người đàn ông, mụn ruồi thịt trên cánh mũi, cả chất mỡ
ngoang nhoáng trên hai gò má đỏ ửng lên vì rượu:
- Ông bỏ tôi ra. Tôi sẽ hét lên đấy.
Tôi đáp, bằng một giọng nhỏ nhẹ nhưng bình tĩnh. Tôi cố sức nhìn vào mặt ông ta,
cố đẩy cái khuôn mặt ấy ra xa để nhận diện cho rõ ràng.
- Không có gì đâu... Không có gì đâu em.

Ông ta lắp bắp. Hai khóe môi dày khép mở, giống như miệng cái mặt nạ ông Địa trẻ
con thường chơi ngày Tết Trung Thu. Tôi hoàn toàn không thấy sợ, nhưng ghê tởm
và căm thù, có lẽ, ông ta đã lờ mờ nhận biết được điều đó qua ánh mắt tôi. Ông ta
nhếch môi cười.
- Tuyết rơi... Trời rét... rét ghê.

Có tiếng gõ cửa. Cô bạn tôi trở về. Tức khắc, cô mỉm cười:
- Chú mà cũng khốn nạn thế à? Đẹp mặt nhỉ.

Ông chú họ co rúm lại, buông thõng hai tay ngồi xuống giường. Các thớ thịt trên mặt
ông chảy xuống. Lúc ấy, trông ông già như một ông lão lục tuần. Cô bạn tôi mở tủ,
rót nước lạnh uống rồi bảo:
- Đánh đĩ phương cũng phải chừa một phương để lấy chồng chứ? Bạn cháu mà chú
cũng không tha à?
Ông chú im ro, không đáp. Hai vai ông nhô lên gần chấm tai. Cô bạn nói tiếp:
- Thôi, sang phòng bên mà ngủ nhờ. Đêm nay chúng cháu ở đây. Từ giờ trở đi, chú
liều liệu đấy.

Ông chú lật nắp giường, lấy ra một bộ chăn gối:


- Đây này. Mới giặt xong tuần trước.
Nói đoạn, ông lùi lũi mở cửa phòng, đi ra. Cô bạn tôi khóa trái cửa buồng, trải chăn
nệm cho tôi nằm, rồi nói:
- Đừng buồn. Đời nó thế. Tất nhiên là cũng có những người tốt. Nhưng mà... Thôi,
đừng nghĩ cho mệt óc. Tao mở máy quay đĩa cho mà nghe.

Tuyết rơi trắng xóa bên ngoài. Những tia sáng xuyên qua, giống những chiếc kim lấp
lánh ai ném vào đêm tối. Cảm giác buồn tủi và nỗi nhớ nhà cùng một lúc ào ạt xô
đến, như những ngọn triều câm nín cuồng liệt. cô bạn tôi mặc chiếc váy ngủ xanh,
loay hoay với chồng đĩa hát. Ánh đèn lịm dần, những sợi tuyết trắng trở nên huyền
ảo. Luc đó, giọng hát của người nữ ca sĩ vang lên. Thoạt tiên, tôi không rõ lời ca.
Dường như một chuỗi sấm lan truyền trong không gian. Sấm của những cơn mưa
mùa hạ. Cơn bùng nổ giận dữ của các dãy núi xa xanh mài miệt nơi chân trời, của
các cánh rừng hoang dã, của các đồng cỏ trơ trụi dưới nắng, của bình nguyên xanh bị
lãng quên. Tôi choáng váng. Sau đó, khoảnh khắc lạ lùng qua đi, tôi bị xô đẩy bởi
một loạt âm thanh khác, khó định được màu sắc, nhưng êm dịu hơn, mặn mòi hơn.
Chúng đưa tôi tới cõi hoang lặng của tâm hồn, nơi tiếng nức nở của con người hòa
trộn với niềm hy vọng, nỗi khoắc khoải được đếm trong nhịp thời gian, góc u tối
trong mỗi căn phòng với cánh hoa buổi sớm. Bài hát chấm dứt. Lại một bài hát tiếp
theo. Tôi không nhớ các cảm xúc và ý nghĩ của mình. chúng tiếp nối nhau, chồng
chéo, xóa nhòa nhau. Cô bạn tôi chồm dậy, lật mặt đĩa hát. Làn sóng âm thanh tuôn

16
Những Thiên Đường Mù

chảy không ngừng. Tôi không nghe hát nữa, tôi nghĩ đến người đàn bà đang hát.
Chắc hẳn những khát vọng trong chị đã có lúc bị vùi lấp dưới tro bụi rồi trộn lên như
mầm cây lúc sang xuân. Chắc hẳn chị đã có lần cúi xuống vì thất vọng, vì chán
chường rồi lại ngẩng lên, học cách hy vọng, tìm niềm vui sống. Tiếng hát của nữ ca
sĩ như tia lửa vọt lên từ đám cháy, như cánh chim phiêu bạt giữa khoảng xanh... Tôi
lắng nghe. Rồi tôi sửng sốt khi nhớ lại câu chuyện xấu xa buổi tối. Âm nhạc đã vang
lên trong căn phòng của một gã đàn ông dơ dáy. Món trộn kỳ quái của cuộc đời.

Bây giờ, lại là giọng hát ấy, trên con tàu tới Mátxcơva. Các cột cây số lùi qua. Bên
ngoài, rừng bạch dương lấp lánh. Màu trắng óng như satanh trên thân cây gợi vẻ đẹp
yếu mềm. Bỗng nhiên, tôi chợt khám phá ra nét quyến rũ trong giọng hát kia. Cái
chất lửa cuồng nhiệt của tình yêu, ngọn phong ba bạo liệt của sự phản kháng, sức
mạnh đẹp đẽ nhất, cần thiết nhất với con người... Tôi thu mình trong góc toa,
khoành tay lại. Giá chi mẹ tôi có được chút cỏn con sự phản kháng ấy?... Giá chi
trong trái tim mẹ có được ngọn lửa nhỏ của đám cháy khát vọng?

17
Những Thiên Đường Mù

Chương 4

Dầu sao, mẹ tôi không thể tiếp tục sống ở làng. Người ta không nỡ thù ghét mẹ,
nhưng cũng khó chịu khi nhìn thấy mẹ. Hai chị em, mẹ và cậu Chính, giống nhau
như hai giọt nước. Từ khổ người, hình dáng, tới nét môi, đường mày, điệu cười, giọng
nói. Ngôi nhà tổ tiên chỉ còn lưu giữ những kỷ niệm buồn. Gánh hàng xén, theo lệnh
cậu Chính, mẹ đã bán. Đôi bồ xẹp trong xó bếp để ủ chuối. Mẹ tôi đắn đo một tuần
trăng, rồi đem cầm ngôi nhà cho người trong họ, thu xếp tiền bạc tư trang, lên thành
phố...

Mười năm sau, tôi đã ra đời trong căn nhà gạch, nửa lợp tôn và giấy dầu, nửa lợp
ngói Tây. Ngõ hẻm nằm trong một khu phố ngoại ô, nơi cư trú của dân lao động.
Sáng tinh mơ, vào trước buổi lê minh, những người bán xôi lúa, bánh rán, bánh
chưng, bánh giò, bún ốc, bún riêu, bánh cốm, bánh khúc và những thứ quà vặt khác
đã thức dậy làm hàng. Bếp trấu, bếp than bập bùng cháy. Mùi thơm của hành phi
mỡ, bánh rán, ớt chưng... tỏa khắp nơi, đánh bạt mùi các đống rác, các chuồng tiêu,
các hốc tường nồng nặc thứ nước tiểu lưu cữu. Rồi những mùi vị thần tiên đó nhạt
dần, bay xa dần với tiếng quang gánh kẽo kẹt, tiếng rao ời ợi của những người đàn
bà:
- Xôi vò, xôi lúa đây ây ây...
- Ai... bánh rán, bánh chưng, bánh dầy...

Mỗi tiếng rao có một âm điệu riêng, với những âm nhấn, những tiết điệu lên bổng
xuống trầm. Trong xóm có bẩy người bán xôi vò, xôi lúa. Qua tiếng rao, có thể phân
biệt từng người. Tiếng rao hàng ời ợi vào buổi lê minh, trong khoảng trời ngoại ô là
thứ âm nhạc đầu tiên đã thấm vào tôi. Mẹ tôi lúi húi xếp hàng vào gánh. Hai chiếc
quang chất dầy tới cổ, nào măng khô, bánh đa nem, bánh đa thái, miến tàu, miến
ta, đỗ xanh, đỗ đen, đậu lạc, vừng trật vỏ, vừng nguyên... cả tò ho, thảo quả, hoa
hồi... mỗi thứ một ít. Mẹ sắp xếp hàng rồi tới vỗ lưng tôi:
- Em ăn cơm rồi hãy đi học nhé. Chìa khóa nhà mẹ vẫn để trong hốc tường.

Mẹ đi. Từ trên giường lăn xuống, tôi đã thấy chiếc mâm đồng sứt vành đặt trên bàn.
Bát dưa cải xanh với đĩa nhộng rang hành. Hoặc bát tương dầm cà với con cá khô
nướng. Mùa hè qua mùa đông năm nay qua năm khác, thức ăn dường như không
đổi. Cơm ủ trong chiếc liễn sành, bên ngoài là chiếc giỏ cũ lót rơm. Bên cạnh khay
nước uống, có sẵn một gói kẹo nhỏ, khi là kẹo bột, khi là mấy thanh chè lam.
- Em ăm chè lam nữa không? Mai mẹ lại mua?
- Kẹo bột ông Tảo có gừng, em có thấy mùi thơm không?

Mẹ cúi xuống bên tôi, thì thầm. Mắt mẹ nhìn tôi, vừa ấp iu vừa ngưỡng mộ. Tôi lờ mờ
cảm thấy, ngay từ độ ấy, tình yêu của mẹ với tôi có gì khác biệt. Những người đàn
bà trong xóm, không nhìn con với ánh mắt như thế.

Một sớm đông, trời bỗng rét cằn rét lụn, tưởng như nước trong chậu đông sánh lại.
Mẹ tôi đi chợ sớm. Gần Tết Nguyên Đán người ta tranh thủ bán hàng. Quanh năm,
chỉ có dịp ấy là dân tiểu thương kiếm được tấm món. Tôi thức dậy, thấy tấm áo bông
đặt ngay cạnh gối. Sờ vào còn ấm. Mẹ đã hơ than trước lúc đi. Tôi mặc áo, ăn cơm
rồi chạy sang nhà cô bạn hàng xóm. Nó còn ngủ li bì, ông bố nghiện thuốc lào ngồi
co ro trên phản, vừa thấy tôi đã giơ chiếc xe điếu lên dọa:
- Về nhà ngay, trời rét thế này muốn sưng phổi hay sao màrủ nhau đi chơi hả? hả?

18
Những Thiên Đường Mù

Tôi đi thơ thẩn dọc đường. Gió lùa những đám lá úa bay qua. Con chó trắng nhà bà
Miều rên ư ử, quét cái đuôi xơ xác lông trên hè phố. Nó cứ dò dẫm bước từng bước
một, vừa bước vừa đưa cặp mắt già nua kiếm đường, cái mũi nhăn nheo hếch lên
một cách khó nhọc.
- Này, Trắng xồm, Trắng xồm,,,
Tôi gọi:
- Trắng xồm, có đi chơi với tao không?
Con chó già lờ đi, ra điệu khinh khỉnh. Lúc đó, anh con trai què của bà Miều từ trong
nhà cất tiếng rống lên:
Rồi thu sang lá vàng rơi đầy.
Hàng bạch dương buồn im xác xơ ven đồi...

Tự dưng tôi muốn khóc. Lúc ấy, con bé Thu bỗng từ sau lưng tôi bước lên:
- Chơi không mày?
Tôi im lặng không đáp. Trong Xóm, cả bọn chúng tôi không đứa nào chơi với con
Thu. Nó xấu bụng, lại có thói điêu toa. Nhiều lần, nó bày trò rủ rê mọi người chơi.
Khi bị mắng, Thu liều đổ ngay tội đầu têu cho đứa khác, và nhanh như cắt lẩn trốn.
Con bé đứng chặn ngay trước mặt tôi, nhắc lại:
- Tao với mày đi chơi nhá?
Tôi không đáp, lưỡng lự.

Thu liếc nhìn quanh rồi bảo:


- Không ai biết đâu. mẹ tao lên cơ quan rồi. Mà trưa nay mẹ tao cũng không về. Cơ
quan có tiệc trà liên hoan.
Tôi phân vân. Nhưng nghĩ tới gian nhà trống vắng, lại thấy sợ. Thu đán được ý nghĩ
của tôi, liền kéo áo tôi, bảo:
- Đi đi... Ra bãi xem thuyền muồm vui lắm. Nếu chịu khó chúng mình có thể đào
được dế mèn.

Tôi theo nó. Chúng tôi vượt qua dãy phố, qua bờ đê, ra ngoài bãi sông. Không gian
thơm ngát. Các bụi cây vòi voi đu đưa chùm hoa tím, các loài cúc áo bé bỏng đơm
hoa dọc bờ cỏ, thỉnh thoảng lại gặp một dây lạc tiên hiếm hoi với chùm quả như
những chiếc đèn lồng. Êm ả trôi, dăm cách buồm trên dòng nước. Người chèo thuyền
ngồi trước mũi lái, mặt nhuộm ánh nắng đồng.
- Dô huây, dô huây...

Tiếng hò vẳng từ dưới bến sông đưa lên. Người ta đang hạ thủy một con thuyền...
Chúng tôi mê mải đi dọc theo bờ cátm theo duổi không chán lũ chuồn chuồn và cánh
cam. Thu hái được một vạt áo đầy quả lạc tiên chín. Nó ăn không kịp thở, không chia
cho tôi một quả. Tôi lắng nghe tiếng hò của những người dân chài. Bỗng nhiên, có
tiếng hét vọng từ bờ đê xuống:
- Thu, Thu ơi i i...
Bóng một người đàn bà đang đi dọc triền đê. Thu vội kéo tôi núp vào ruộng ngô gần
đấy. Mẹ nó vẫn tiếp tục gọi:
- Thu, Thu ơi i i...
Tiếng gọi chứa đầy tức giận, nghe như tiếng hét. Cả Thu lẫn tôi đều nín thở. Nó nằm
ẹp xuống rãng ngô, kéo tôi theo. Chờ cho mẹ nó đi thật xa, xuôi bãi sông tới trở dậy:
- Về, về ngay...
Thu bảo tôi. hai chúng tôi men theo các ruộng ngô và bí đỏ về phố.
- Giả vờ chơi ô ăn quan nhé. Vào sân ông lão mù xem bói.

Thu kéo tôi vào cái hẻm đầu tiên trong ngõ phố. Ở đó, có một ông già mù, chuyên
sống bằng nghề bói. Ông ở trong một căn nhà gạch nhỏ, nghe đâu bà vợ dã xây cho

19
Những Thiên Đường Mù

ông trước khi bỏ đi với một người đàn ông khác, cách đây 17 năm. Căn nhà nhỏ
nhhưng khá sạch và đầy đủ vật dụng cần thiết. Sân rộng, lát gạch men nâu, có cả
tường hoa bao quanh và một luống đất trồng những loại cây lưu niên như lựu, đào,
mơ. Người từ các nơi nghe tiếng đồn thường tới ngồi ở mảnh sân ấy, chờ tới lượt
mình được thày xem. Lũ trẻ trong ngõ phố tới sân chơi nịt, chơi nhảy lò cò, chơi ô ăn
quan hoặc đá cầu lông. Thu kéo tôi ngồi xuống, ấn vào tay tôi hòn gạch non nó đã
nhanh tay lượm được trên đường về:
- Vẽ đi, vẽ ngay ô ăn quan không mẹ tao về tới nơi bây giờ.

Tôi cầm hòn gạch, hối hả vẽ vòng ô ăn quan. Còn Thu chạy ngay ra đống sỏi đầu
xóm bốc về đầy vạt áo. Nó vừa chia sỏi, rải đều vào các ô, mẹ nó đã xộc tới:
- Ở đâu? Nãy giờ mày ở đâu?
Con bé ngẩng lên:
- Chúng con chơi ô ăn quan.
Mắt mẹ nó trợn ngược, gần như chỉ còn lòng trắng. Cập môi phai son trơ ra, thâm
tím. Bà ta cúi xuống túm tóc đứa con:
- Tao rẽ vào đây rồi mới ra bờ sông tìm mày. Đi đâu? Chết băm chết vằm ở đâu?
- Con chơi...
Thu ấm ớ, miệng méo xệch.
Mẹ nó kéo con gái đứng lên, róng rả từng lời:
- Đi đâu? Khai ra thì sống. Còn quanh co, tao đánh tuốt xác. Đi đâu?
Mặt cái Thu tái xanh nước mắt vãi như tháo cống. Rồi, bất chợt nó khóc hu hu:
- Cái Hằng rủ con ra bãi sông. Nó bảo con đi đào dế mèn... Hu hu... Nó còn rủ con bẻ
ngô về nướng.

Người đàn bà quay nhìn tôi. Cặp mắt bà ta lồi hẳn ra, trơ và nhẵn như mắt tượng
trong chùa, Môi bà mím lại, hằn thành vệt thâm và mọng. Bà im lặng. Những tia nhìn
lạnh buốt, đe nẹt, khinh bỉ của bà quất vào mặt tôi, đè bẹp tôi xuống mặt đất lấm
bụi. Tôi run lên, hai ống chân cơ hồ không đứng vững. hai tay bấu chặt lấy vạt áo,
tôi cố sức chịu đựng cái nhìn sắc sảo của bà. Cổ tôi nghẹn lại. Bà lia mắt từ đầu tới
chân tôi, kiểu như người ta nhìn một con vượn trong chuồng sắt sở thù. Rồi bà ghìm
giữ cơn tức giận sắp biến bà thành một vị chúa sơn lâm nhảy vào xé xác tôi, bà cúi
xuống ném vào mặt tôi từng câu một:
- Con kia, tao cấm mày lân la tới gần cái Thu, tao cấm mày bén mảng tới đầu sân,
trước ngõ nhà tao. Quân vô thừa nhận, trên không chằng, dưới không rễ. Đồ con
hoang không bố, lần này tao tha, lần sau thì chớ trách.

Nói đoạn, bà ta túm lấy tay con, xềnh xệch kéo đi. Tôi đứng trên mảnh sân gạch, rải
rác lá rụng, nghe gió bắt lùa ngang trời. Hồn tôi như ngôi nhà tan hoang, không
tường không vách. Con chó già nhà bà Miều lại kéo đuôi lững thững đi qua hè phố,
vừa đi vừa đưa mõm sang hai bên hít hít, ngửi ngửi. Nó cũng không khốn khổ như
tôi, trơ trọi như tôi. Ông già mù ngồi trong nhà bỗng cất tiếng:
- Hằng ơi, vào đây ông bảo...
Tôi đứng lặng, nước mắt dâng cay xè.
- Hằng ơi...
-
Tôi cắm đầu chạy khỏi sân, nước mắt nhòe trong gió lạnh. Ngang trời ngoại ô, mây
xám lướt chầm chậm, lũ chim di trú cuối cùng vỗ cánh bay. Món cháo bi thương của
người đời có vị đắng ngắt, không trôi được qua họng. Tôi chạy mãi, chạy mãi. Cho tới
khi kiệt sức, ngã xuống, tôi thấy làn sóng đỏ của dòng sông nhấp nhô trước mắt
mình. Và một cánh buồm nhỏ, góc bên dưới rách tơi tả nhấp nhóang trôi...

Đêm hôm ấy, nước mắt mẹ rơi ướt đầm món tóc bên thái dương tôi:

20
Những Thiên Đường Mù

- Mẹ xin em, em đừng khóc. Nín đi, em nín đi, đừng khóc.
- Nhưng con phải có một người bố chứ? Ai cũng được mà.
- Mẹ xin em, em đừng hỏi.
- Đứa nào cũng có bố, dù bố nó đã chết hoặc đui mù, mẹ phải chỉ cho con biết bố
của con.
- Em đừng hỏi. Mẹ chắp tay lạy em ngàn lạy, xin đừng hỏi. Mẹ con ta sống với nhau,
có nhau, thế là đủ, mẹ xin em.
Những giọt lệ của bà đã thắng. Tôi đành chịu thua, và hình ảnh về người bố vẫn nằm
im trong tấm màn đen bí ẩn.

Hơn một năm sau, cũng vào một ngày đông giá, nhà tôi có khách. một người đàn
ông cao lớn lưng hơi gù, khuôn mặt vuông, mắt đen, môi cười hình trái đào:
- Đây là cậu Chính, cậu ruột của con.
Mẹ tôi bảo. Tôi cúi chào thật to. Cậu cao lớn nhưng nét mặt rất giống mẹ. Tôi có cảm
tình với cậu tức khắc.
- Con nấu cơm mẹ nhé? Có phải ra phố mua thịt quay không?
Mẹ tôi gật đầu:
- Mẹ nấu cơm cho. Con đến hiệu thịt quay chú Tàu mua nửa cân lợn quay, nửa cân
ngỗng quay với hai lạng kiệu muối.
Cậu Chính cau mày:
- Không cần lãng phí như vậy.
Mẹ tôi đáp nhỏ nhẹ:
- Ngót chục năm trời chị em mới gặp nhau.
Nói xong, mẹ sai tôi vào buồng lấy chiếc làn tre Lạng Sơn đi chợ. Trong buồng, tôi
nghe cậu hỏi:
- Con bé Hằng mấy tuổi?
Mẹ tôi đáp:
- Cháu gần tròn 9 tuổi rồi.
Cậu bảo:
- Nó giống hệt anh ta.
Mẹ tôi im lặng không đáp. một lát sau. cậu nói:
- Chị không có lập trường. Chị không dứt bỏ được con người ấy. Đáng lẽ chị phải xây
dựng gia đình mới từ lâu.
Tôi nghe mẹ nói, yếu ớt:
- Gia đình bên ấy xuống trung nông ngay hồi sửa sai rồi. Mà thôi, tôi xin cậu đừng
nhắc lại chuyện cũ.
Tôi cầm làn đi ra. Cả hai người im bặt. Tôi hỏi:
- Mẹ ơi, có phải mua thêm rau đậu nữa không?
Mẹ tôi lắc đầu:
- Đủ rồi em ạ.
Nói xong, mẹ cúi xuống ngay. Nhưng tôi đã thấy hai giọt nước mắt rơi xuống đầu gối
người.

Tối hôm ấy, sau bữa cơm mẹ mời láng giềng thân thuộc sang chơi, giới thiệu cậu em
ruột. Dân trong ngõ xóm đều là lao động, người buôn thúng bán mẹt, người làm
hàng xôi hàng bún, người kéo xe ba gác chở hàng hoặc đạp xích lô. Họ nghe giới
thiệu cậu Chính tôi là cán bộ tuyên huấn của tỉnh Quảng Ninh thì nể vì lắm. Trong
con mắt chúng tôi lúc đó, tuyên huấn là một nghề cao siêu, không thể so sánh với
các nghề nghiệp khác trong xã hội, vì nó đem lại cho con người tư tưởng, ánh sáng,
những tài sản cao quý không tiền bạc nào mua nổi. Cậu tôi đọc nhiều tài liệu trong
và ngoài nước, cậu kể chuyện hấp dẫn. Đám láng giềng nhà chúng tôi ngồi nghe mê
mẩn. Nào là cuộc đấu tranh của hai phe trên thế giới. Nào là các cuộc bãi công nổ ra
trong phe tư bản, phong trào công đoàn phản đối nữ hoàng Anh. Nào là những dòng

21
Những Thiên Đường Mù

thác cách mạng trên địa cầu. Những thủ lĩnh da đen lãnh đạo cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc. Các bộ tộc da đỏ đấu tranh đòi hưởng thụ nền văn minh vật chất của
bọn đế quốc mới. Quá nửa đêm, dân xóm mới chịu ra về. Mẹ tôi hỉ hả. Vẻ mãn
nguyện hiện ra trên nét mặt. Mẹ thu dọn những cốc chén, tàn thuốc lá thuốc lào, đĩa
đựng mứt sen, mứt bí, kẹo chanh... Giống như người ta thu dọn bàn tiệc sau lễ cưới.
Rồi mẹ trải chiếu mới, sắp xếp chăn màn cho cậu Chính đi ngủ:
- Mẹ con tôi ôm nhau nằm võng càng ấm. Cậu đi nghỉ sớm cho đỡ mệt. Đường dài...
Cậu bảo:
- Không cần. Chị cho cháu Hằng đi ngủ trước đi. Em còn có chuyện phải nói.
Mẹ tôi bảo tôi vào giường ngủ. Xong. Mẹ pha ấm trà ướp hoa cúc:
- Cậu có ăn chè sen tôi nấu? Hồi còn thầy u, năm hai lần, ngày lễ Nguyên tiêu và
Tết, bao giờ nhà cũng nấu xôi vò, chè sen.
Cậu Chính đáp:
- Vâng. Nhưng dạo đó em còn nhỏ quá, em không nhớ.
Mẹ tôi nói:
- Tôi tuổi Hợi, cậu tuổi Sửu, chỉ thua tôi chưa đầy hai năm, sao lại không nhớ?
Cậu tôi im lặng một lát rồi đáp:
- Phải, nhưng em mải nghĩ đến việc nhà nước, đầu óc bận rộn luôn luôn.
Mẹ tôi nói, giọng hờn dỗi:
- Thế nên 9, 10 năm trời cậu chẳng thèm hỏi tôi lấy một câu. Giá tôi chết, cũng
không có người sang điếu.
Cậu Chính đáp, cằn nhằn:
- Đã bảo chị là em bận. Việc công chứ em có đi chơi đâu. Hết cuộc tập huấn này tới
cuộc tập huấn khác, hết hội nghị tỉnh đoàn tới hội nghị tỉnh hội phụ nữ. Rồi là mặt
trận tổ quốc, rồi là công đoàn, không có lấy một ngày thảnh thơi. Sắp tới, lại có
chiến dịch tuyên truyền, phổ biến nghị quyết xuống các cấp. Chắc xong việc thì Tết
cũng tới sau lưng.
hai người im lặng. Tôi nghe tiếng cậu rót trà, uồng ừng ực rồi đặt chén xuống chiếc
khay nhôm, một khoảnh khắc lặng lẽ nữa trôi qua. Chợt mẹ tôi bật kêu:
- Sao cậu chẳng hỏi gì giỗ tết thày u thế? Bao nhiêu năm...
Cậu Chính thở dài:
- Ôi dào, chị khéo đa sự. Thày u chết lâu rồi còn hỏi làm gì?
Mẹ tôi khóc dấm dứt:
- Nhưng mà là thày u của mình. Chết hay sống cũng vậy. Thày u chỉ có cậu là người
nối dõi.
Cậu Chính gắt:
- Chị ăn nói lạ, thời buổi này là thời duy vật, không ai còn nghĩ vớ vẩn như chị. Chết
là hết.
Cậu ngừng lời, gian nhà im vắng, chỉ có tiếng nấc khe khẽ của mẹ tôi điểm nhịp. Cậu
tôi, sau một lát im lặng, cất tiếng:
- Em quên chưa hỏi, bây giờ chị sống bằng nghề gì?
Mẹ tôi lau nước mắt, trả lời:
- Thế cậu không thấy gánh hàng khô chị đặt trong góc nhà hay sao? Hồi ở quê, dấn
vốn có gánh hàng xén cậu bắt đem bán. Đôi bồ nan cật, quang dầu tốt thế đành đem
dấm chuối cứ mục dần ra. Làm vườn không được, chị đành phải cầm nhà ra phố.
Thoạt đầu, chị đi kéo sợi thuê cho nhà làm chỉ. Sau quen chúng quen bạn dần, kiếm
gánh hàng ra chợ. Lúc vốn ít thì buôn hoa quả, măng tươi, mì miến. Sau dấn vốn
nặng hơn, chị cất cả đường, đậu, các loại gia vị, các thứ đồ ngũ cốc chế biến.
- Tóm lại chị buôn chứ gì?
Cậu tôi cắt ngang, giọng khó chịu, lạnh lùng. Mẹ tôi lặng ngắt, không đáp. Cậu tôi
lên tiếng, chì chiết:
- Trong xã hội này, chỉ có hai loại người có chỗ đứng xứng đáng. một là giai cấp công
nhân tiên phong, đội ngũ lãnh đạo các mang. Hai là giai cấp nông dân lao động,

22
Những Thiên Đường Mù

người bạn đường của giai cấp công nhân, cùng tiến lên xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra,
không đáng kể. Loại con buôn, dù lớn dù nhỏ, đều là những kẻ bóc lột. Chị không thể
đứng trong hàng ngũ bọn chúng.
Mẹ tôi hốt hoảng:
- Nhưng tôi không bán hàng khô thì biết làm gì bây giờ? Tôi còn phải nuôi cháu cậu.
Cậu tôi đáp, giọng tỉnh khô:
- Em sẽ xin cho chị là công nhân nhà máy. Mới vào, hãy làm tạp vụ. Sau, họ sẽ dìu
dắt vào nghề. Nhà máy đệt Mồng 8 tháng 3, nhà máy điện Yên Phụ, nhà máy xay
Lương Yên, nơi nào cũng được.
Mẹ tôi mếu máo:
- Thôi chị xin cậu. Ngần này tuổi mới tập phụ nghề rồi biết bao giờ mới thành nghề.
Mà có thành nghề rồi tóc cũng hai thứ. Lúc ấy, chẳng lẽ nghỉ hưu?
Cậu Chính nói:
- Cái chính là chị ngại lao động. Chị đã quen với môi trường của dân tiểu thương.
Nhưng chị hãy nghe em, trướn hay sau Đảng và Nhà Nước cũng sẽ cải tạo triệt để
loại người phi lao động. Chị hãy từ bỏ bọn chúng, đứng vào đội ngũ của những người
lao động ngay bây giờ là hơn.
Mẹ tôi nóiL
- Cải tạo tư sản nhà nước đã làm từ 10 năm trước. Như chúng tôi, mờ sáng đã đặt
dòn gánh lên vai, tối đất mới được ăn bữa cơm đèn, cậu bảo bóc lột ai? Mấy mùa
đông năm trước, chưa kiếm đủ tiền giấy bút cho cháu, ban ngày đi chợ, tối về phải
xách nồi than ra đầu phố, quạt ngô bán thêm.
- Thôi thôi...
Cậu tôi cắt ngang lới:
- Chị không phải nói nhiều. một bộ phận giai cấp tư sản đã được hình thành từ đám
tiểu thương như chị. Nhưng đất nước ta sẽ tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa không qua
giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Do đó, tư bản trở thành đối tượng của
cách mạng. Phải trừ tận gốc rễ mầm mống giai cấp ấy.
Tôi nghe mẹ tôi thở dài. Rồi lát sau, mẹ rầu rĩ nói:
- Cậu Chính, bỏ lỗi cho chị. Chị không được học hành nhiều, chị không biết lý luận.
Nhưng ít nhất cậu cũng cho chị kiếm đủ miếng cơm nuôi cháu Hằng ăn học.
- Chính vì nghĩ tới tương lai cháu Hằng em mới yêu cầu chị vào nhà máy. Trong xã
hội mới, con em của giai cấp công nhân và nông dân được hưởng mọi quyền lợi để
phát triển khả năng lao động. Ở Liên Xô, các nhà văn lỗi lạc, các nhạc sĩ thiên tài,
các giáo sư tiến sĩ khoa học đều được đào tạo từ đội ngũ của giai cấp công nhân.
Mẹ tôi không trả lời. Cậu Chính gằn giọng:
- Tôi làm công tác tuyên huấn, giáp dục tư tưởng của Đảng cho các tầng lớp nhân
dân trong xã hội. Tôi không thể có một người chị là con buôn.
Mẹ tôi uống nước, rồi khe khẽ đáp:
- Chị mệt quá. Cậu để cho chị đi ngủ. Rồi mai mốt chị sẽ nghĩ thêm.
Cậu gật đầu, giọng nói êm dịu lại:
- Vâng. Nhưng em có việc nói với chị. Vợ chồng em xin chuyển về Thủ Đô. Cô ấy
công tác ở Thành Đoàn. Chúng em được phân phối nhà ở nhưng cần tiền để tu tạo và
mua sắm đồ đặc.
Mẹ tôi nói:
- Vâng. Nhà của thày u tôi cầm cho người ta, hẹn khi nào lấy hết tiền mới làm giấy
chính thức. Phần của cậu vẫn còn nguyên. Bao giờ cậu cần?
- Cần ngay, càng sớm càng tốt.
- Vậy cậu về lấy tiền, hay tôi?
- Em bận, làm gì có thời giờ về làng.
- Vâng. Tuần sau tôi sẽ thu xếp hàng họ, đưa cháu về quê. Tôi lấy tiền cho cậu và
cho cháu về thăm nom họ hàng làng xóm.
Đúng một tuần lễ sau, mẹ đưa tôi về làng. Hai mẹ con tôi đi xe ca, xuống bến xép ở

23
Những Thiên Đường Mù

thị trấn. Từ thị trấn phải đi bộ 8 cây số mới tới bờ sông. Ngang đường, tôi đòi mẹ dẫn
vào chợ huyện, một cái chợ quê đông đúc họp ngay trên đồi, cách đường chừng 500
thước. Những cây đa cây muỗm um tùm nối thành mái che. Dưới các tán cây, người
ta dựnng một dãy lều sơ sài, chỉ vài cây cọc chống với mái lá mía hoặc thân nứa đập
dập. Phía sau chợ, ngôi chùa nhỏ phơi tường vôi trắng mốc với mái ngói rêu phong.
Trên gò đất trước cửa chợ, vợ chồng người thợ nhuộm đang vắt những mảnh lụa vừa
vớt trong nồi lên cây sào tre. Mảnh nào mảnh nấy bốc hơi nghi ngút, màu hoa sen
chói mắt. Trên chiếc sào bên cạnh, chừng dăm mảnh vải và quần áo màu thiên lý,
màu hoa hòe, màu gụ, màu đen. Những thứ màu muôn thuở dân quê ưa thích. Đối
diện với hàng nhuộm, một ông già mặc quần áo trắng bẩn, ngồi dãi thẻ nặn những
con giống bột, nào lợn, nào gà, nào trâu, nào ông tướng, bà tướng, thằng tốt đen, cỗ
xe hồng. Từng đoàn con giống sặc sỡ xếp hàng trên tấm ván mỏng, kê lên 4 hòn
gạch.
- Te tò te, đây là ban kèn Tây.
Ông già vừa nặn xong cây kèn, đưa lên miệng thổi. Lũ trẻ ngồi quanh giương mắt, há
miệng chầu hẫu theo cục yết hầu nhảy lên tụt xuống trên cần cổ già nhăn nheo.
- Te tò te, đây là ban kèn Tây.
To tò tò te tí, có anh nào muốn chơi...

Câu mời chào quyến rũ làm sao. mẹ mua cho tôi hẳn 12 con giống với cây đèn ngũ
sắc. Tôi xếp mớ tài sản vào chiếc hộp giấy, trước ánh mắt thòm thèm của đám trẻ
quê. Mẹ đưa tôi qua dãy hàng xén, bồi hồi nhìn những chiếc hộp gỗ mặt kính bề rộng
chừng gang rưỡi, bề dài hai gang, bên trong xếp từ viên bi thủy tinh, mớ chỉ thêu,
gói kim ngoại cho tới những chiếc mùi xoa Tàu in bướm sặc sỡ, từ những chiếc ngòi
bút sắt, viên băng phiến cho tới chỗi hạt vỏ ốc hoặc ngọc trai bằng nhựa giả.
- Ngày xưa, mẹ cũng bán hàng xén. Nhưng ở chợ huyện nhà.
Những giải quai nón bằng lụa ni lông bay phấp phới trên nóc lều. Các cô bán hàng
trẻ, lông mày tỉa cong vút như vành trăng ngồi nhể ốc trên trong. Mùi nước mắm
gừng bay trong gió. Chợ quê, đến là nhiều thứ quà. Những quà rẻ tiền và đôi khi đơn
sơ một cách lạ lùng. Kề bên những bánh bún riêu, bún ốc người ta bán cả bún canh
rau cải, rau rút. Cạnh hàng bỏng ngào mật, chè lam, ngũ vị, người tabán cả những
thúng bánh con sâu, một hào 12 con, vừa bằng ngón tay út đứa trẻ lên hai. Thứ
bánh đó nặn bằng cơm nguội giã trộn bột nếp. Cứ 10 phần cơm nguội mới có hai
phần bột nếp. Rồi nặn hình con sâu rau ném vào chảo dầu lạc. Bao giờ bánh chín,
bột vàng rộm, nứt khía ra và nổi lên trên.

Bánh nếp ở đây chỉ vừa bằng trôn chén. Bánh gai nhỉnh hơn cái hạt mít, bọc năm
bẩy lượt lá chuối bên ngoài. Hàng khoai luộc, củ ấu, củ súng luộc ngồi cạnh gánh
xẩm. Chồng xẩm đeo kính mắt đen ngồi kéo nhị, vợ xẩm mặc áo lụa đỏ phai màu
gân cổ hát bên cạnh:
- “Con tàu Việt Nam đi suốt bốn mùa vui...”
Mẹ tôi hỏi tôi có đói không? Tôi lắc đầu. Kì thực tôi có thấy đói nhưng không muốn
ăn. Mấy người đàn bà đang cắm cúi ăn bánh đúc mắm tôm ngay gần đó. Nón họ sụp
xuống mặt. Chỉ thấy bàn tay hạ xuống, cất lên. Hai mẹ con tôi đi khắp lượt các hàng
quán trong chợ, len lách giữa đám người. Giọng hát xẩm của người đàn bà đuổi theo.
Cứ nghe mỗi lời hát, tưởng chừng lại nhìn thấy sợi gân cổ bằng chiếc đũa nổi lên.
Giọt mồ hôi đọng trên cái cằm cáu bẩn. Tôi nói:
- Ta vào chùa đi mẹ.

Tôi kéo mẹ về phía cổng ngôi chùa. Ở đó, có một cây đa huyền diệu. Cây đa có tới
bảy thân, một thân chính và sáu thân phụ. Mỗi thân phụ là một chòm rễ nối từ cành
cây xuống mặt đất. Nhưng các thân phụ cũng lực lưỡng gần như thân chính. Chúng
tạo thành các vòm cổng kết thành thân cây, như những cổng chào kì bí, những khải

24
Những Thiên Đường Mù

hoàn môn của trận thắng xa xưa. Tôi ngồi xuống gốc đa, tựa vào đùi mẹ. Những
chòm rễ đa trắng ngà đu đưa, đu đưa. Đột nhiên, như những cái vòi bạch tuộc lạ
lùng, chúng dính chặt lấy tôi, bứt tôi khỏi vòng tay mẹ. Tôi muốn kêu, nhưng cơm
mê dịu ngọt khiến tôi không cất được thành lời. Những chòm rễ đa đung đưa tôi
trong cái nôi xanh êm ả, lộng gió. Rồi chúng đưa tôi tới tận cổng trời. Một bức tường
thành sừng sững bởi các lớp mây nặng nề, có ánh bạc như kim khí tạo nên, chạy dài.
Giữa tường thành, cái cổng được trổ ra, với hai cây cột lớn bao phủ làn mây ngũ sắc,
cuộn xoắn như những con rồng đùa giỡn. Hai cánh cổng tựa hai tấm đồng sáng chói,
bóng như gương, cánh khép, cánh mở, nửa như mời mọc, nửa đe dọa con người. Phía
sau hai cánh cửa ấy, một khoảng không gian kì bí hiện ra, màu lục thẫm, trong suốt,
và lấp lánh như ẩn chứa ngàn ngàn tinh tú.

- Em ơi, dậy đi, dậy đi nào.


Tôi mở mắt. Mẹ tôi cười:
- Con chó con, đến là dễ ngủ.
hai hàng ngọc trai sau làn môi mẹ ánh lên. Ánh lên nỗi buồn. Xuân sắc đã qua rồi.
Không để làm gì. Chẳng để cho ai.
- Cũng phải ăn tí ti chứ em? Mẹ cũng đói rồi.
Tôi ngồi dậy, từ bỏ vòm đa xanh và cái cổng trời huyền hoặc. Nhà chùa cũng bán
hàng: bánh nếp đậu xanh và chả đỗ xanh. Ni cô cầm chiếc quạt tre phẩy ruồi. Mẹ
con tôi ăn chả đỗ, uống nước vối hãm gừng. Mặt trời đã tụt xuống ngang đỉnh núi.
Nắng le lói, vàng hực, tỏa hơi nóng như lò gạch đang nung. Mẹ tôi bảo:
- Trời đang ấm, phải đi ngay kẻo lát nữa sẽ lạnh.
Tay cầm túi, tay đắt tôi mẹ lên đường. Hôm ấy là một ngày đông hiếm hoi. Trời lặng
gió, ấm. Con đường vượt qua các cánh ruộng, các thôn mạc. Bãi cỏ hoang với cây
gạo già. một nghĩa trang có những bậc thềm xây, ngọn tháp in hình ngôi sao 5 cánh
với dòng chữ: Tổ quốc ghi công. Một khu hồ bát ngát, nước lặng ngắt dưới chân các
cọng sen tàn.
- Nhanh chân lên em. Hay ôm cổ mẹ, mẹ cõng.
- Không, con đi được.
- Từ đây tới bến sông còn dăm cây số nữa.
- Dăm cây con cũng đi, mẹ đừng lo.

Tôi chạy vượt lên, cách mẹ một đoạn. Chờ mẹ đuổi tới nơi, tôi lại chạy tiếp. Cứ thế,
mẹ con tôi đã tới bên sông trước lúc hoàng hôn. Cái bờ đê dốc thoai thoải ăn xuống
tận mép nước. Những đám rác quẩn tụ ở đó, với xác vờ. Mẹ tôi xuống bến rửa chân
tay cho tôi, rồi chúng tôi tìm một phiến đá, ngồi chờ đò. Trời trở gió. Làn hơi lạnh từ
mặt sông thốc ngược lên phả vào da thịt. Hơi thở của mùa đông. Tôi ôm choàng cổ
mẹ:
- Mẹ ơi, bố con ở đâu?
Mẹ nhìn tôi ngạc nhiên, rồi sau đó khẽ than van vỉ:
- Mẹ xin em, đừng hỏi.
Tôi nhắc lại:
- Bố con ở đâu? Sao mẹ không nói cho con biết?

Mẹ cầm bàn tay tôi, không đáp. Ánh hoàng hôn tím dần nơi chân trời. một làn khói
tỏa giữa thinh không, khiến mọi vật không rõ nét. Tôi biết câu hỏi của tôi khiến mẹ
đau lòng. Nhưng tôi không thể cầm giữ. Tôi chưa bao giờ hình dung rõ gương mặt
của một người bố. Nhưng nỗi cô đơn, hơi thở giá lạnh của chiều đông, làn sương tím
lãng đãng trên khoảng trời nhạt nhòa mây nước, cái khung cảnh ấy khiến tôi run rẩy
vì lẻ loi. Mẹ tôi cũng trở nên nhỏ bé và lẻ loi. Tôi muốn cầu cứu một gương mặt nào
khác, một cánh tay nào khác trong đời. Gió mỗi lúc mỗi mạnh, rít u ú qua các tầng
dây điện trên cao. Mẹ tôi vẫn im lặng hoài. Nhưng lúc ấy, cánh buồm trắng đã chòng

25
Những Thiên Đường Mù

chành tới bến:


- Qua sông thì xuống đi. Chuyến cuối đấy.
Tiếng người lái thuyền ném lên, cục cằn. Đám khách ngồi trên thuyền láo nháo đứng
dậy.
- Đi đi em.
Mẹ tôi giục khẽ. Rồi chúng tôi xuống dốc. Những hòn sỏi trơn tuột lăn xuống nước,
chút nữa tôi ngã theo. Chờ đám khách dưới thuyền lên hết bờ, người lái thuyền mới
cho chúng tôi bước lên cầu.

Trên bờ đê, một người đàn bà gánh gánh khoai tây nặng trĩu, vừa chạy vừa cất tiếng
gọi:
- Đò ơi i i... Bớ đò ò ò... Chờ với í í...
Người lái thuyền cắm cây sào đứng chờ. Người đàn bà gánh được gánh khoai tây lên
thuyền, rút vuông khăn trùm đầu xuống lau mặt:
- Lạy trời, may thật là may. Lỡ chuyến này là tôi chết.
Mặt bà đỏ ửng, nhễ nhại mồ hôi. hai tay bà xương xẩu, gân guốc như tay thợ nề. Các
đốt xương lồi cả ra, như đốt xương người mắc chứng viêm khớp. Đôi vai bà rất
mảnh, rất gầy, không hiểu sao nó có thể chịu nổi gánh khoai tây nặng ngót nghét
một tạ.

Trên đỉnh dốc, lai một người đàn ông nữa hấp tấp kêu:
- Bớ đò ò ò... Chờ tôi với í í...
Ông ta có dáng vẻ như một người buôn hàng chuyến. Quần ka ki vàng, áo ca rô nhàu
nát buông ngoài quần, tay xách túi du lịch lấm bê bết. Chân ông đi giày, thứ giày sĩ
quan đế to, khâu những mũi chỉ dài hai ba ly, trông cục mịch. Khi ông bước lên cầu
thuyền, con thuyền chao hẳn về một bên.
- Úi chao ơi. Cái nhà ông này, trông thế mà nặng khiếp.
Người đàn bà gánh khoai tây kêu to. Ông khách mới quay đầu lại, trừng mắt nói:
- Nặng nhẹ thì động gì tới nhà bà?
Người đàn bà chưng hửng nhìn ông ta, rồi gương mặt chấc phác hiện rõ vẻ bối rối,
khốn khổ. Đưa mắt nhìn chúng tôi, bà lắp bắp mấy lời:
- Ấy là... ấy là... tôi cũng nói thế.

Lần nữa, người đàn ông quay hẳn mặt lại. Một gương mặt to, thô lậu, hai gò má sần
sùi. Tương phản với nó lá cái miệng nhỏ, môi tròn, có ngấn xẻ. Một cái miệng đàng
điếm của đàn bà trên khuôn mặt tên đồ tể. Trong cặp mắt của ông ta, lảng vảng một
làn khí hắc ám. Chúng luân chuyển giữa đôi tròng đen luôn chao đảo và phần lòng
trắng rất lớn, sắc vàng nhờ, nối những mạch máu li ti. Ném một cái nhìn dữ tợn vào
mắt người đàn bà, ông ta quát:
- Câm mồm đi.

Tiếng quát khiến cả thuyền sững sờ. Mẹ con tôi, dăm người khách quá giang, và
người đàn bà gánh khoai khốn khổ đều im bặt, đưa mắt nhìn xuống đáy thuyền. Nơi
đó, một chiếc gàu tát mẻ miệng nằm chềnh ềnh giữa hai làn nước lênh láng. Chỉ
người lái thuyền là thản nhiên nhìn lên bờ đê. Ông ta khoèo một chân giữ mái chèo,
đưa tay mân mê mấy sợi râu cằm lún phún. Gió vẫn phần phật thổi vào lỗ rách của
cây buồm. Con thuyền đu đưa. Những đám xác vờ trắng bị sóng đánh tan tác như
nắm hoa nhài tàn ai ném xuống mặt nước. Rồi vài khoảng khắc sau, chúng lại hợp tụ
giữa những lườn nước xoáy. Từ bờ đê bên kia, gió đưa lại một giọng ca véo von.
- Đi thôi.

Người lái thuyền nói. Rồi rút cây sào đáng phựt một tiếng, ông ta đẩy thuyền rời bến.
Tiếng nước óc ách vang động hoàng hôn. Những vòng sóng tím thẫm vỡ tan dưới mũi

26
Những Thiên Đường Mù

thuyền. Tôi co người lại, ôm lấy mẹ vì làn hơi giá buốt phà vào da thịt. Cót két... cót
két... cánh buồm lắc lay ngay trên đầu tôi. Tôi có cảm giác như cây cột gỗ kìa sẽ bị
gió bẻ và cả cánh buồm chụp xuống. Cót két... trục buồm vẫn kêu, những cánh
buồm vẫn phồng lên hứng gió. Con thuyền lướt sang sông. Tới giữa dòng, chợt một
người đàn bà trẻ lao xuống bến:
- Bớ đò ò ò... Bớ đò ò ò...

Người lái thuyền không quay đầu lại. Cái gáy của ông ta rất lực lưỡng cạo nhẵn thín,
nổi trên cái cổ sơ mi cũ. hai cánh tay trần, áo len sắn tận khuỷu điều khiển cây dầm
chèo lẹ làng.
- Đò ơi i i...

Tiếng gọi lan dài trên mặt sóng. Trời chạng vạng. Chỉ trong giây lát, ráng mây cuối
cùng của hoàng hôn tắt lịm. Mây khói nhòa đường chân trời. Làn nước trở nên huyền
bí đưới lớp áo màu tro xám, ánh từng viên sóng như thủy ngân. Cái dáng lẻ loi của
người trễ đò nhỏ dần, nhỏ dần. Bờ đê bên kia đã lừng lững hiện ra.

Đêm hôm đó, tôi mơ thấy mình bị đánh. Nhưng tôi không hiểu ai đã đánh tôi và tôi
có tội gì. Tôi đã khóc rất lâu, rất lâu, nước mắt ướt đẫm gối. Có lẽ mặc cảm của trận
đòn ấy kéo dài nên hôm sau, khi những người đàn bà láng giềng trêu chọc, tôi đã bỏ
ra vườn.

- Bây giờ, mẹ kể cho con nghe.


Sáng hôm sau, khi đã an ùi tôi bằng hai que kẹo mạch nha thật to, mẹ bắt đầu nói
tới người chồng của mẹ. ông bố tôi chưa bao giờ biết tới.

27
Những Thiên Đường Mù

Chương 5

Không chịu nổi oan ức, nhục nhã, bố tôi đã bỏ làng đi. Ông dắt theo lưng số vốn còm
của người chị gái. Thoạt đầu, bố tôi lên huyện tìm người bạn cũ. Ông này trước đây
dạy cùng trường với bố tôi, con một gia đình ba đời làm nghề buôn nước mắm trên
thị trấn. Tìm được tới nơi, người bạn cũng đã bỏ phố huyện lên Lào cai. Gia đình ông
bị nghi là chứa chấp Quốc dân đảng, chính quyền quản thúc chờ ngày xét xử. Lúc ấy,
ngay ở phố huyện, bãi cỏ lớn trước vốn là sân quần ngựa cũng đã biến thành trường
đấu. Địa chủ lớn, cường hào, ác bá điển hình trong các xã được đưa lên đấu tố và
đem ra trước tòa án của nông dân xét xử. Suốt đêm tiếng trống, tiếng kèn, tiếng hô,
tiếng la hét của đám đông vang động. Đội du kích đi tuần tra, lưỡi lê giương sáng
quắc. Các đội viên du kích, súng lăm lăm chĩa về phía trước, trong tư thế sẵn sàng
chiến đấu. Mắt họ cũng sáng quắc như lưỡi lê vì tinh thần cảnh giác, nhìn như lục
soát đám khách bộ hành. “Không để bọn địa chủ lọt lưới” – Khẩu hiệu kẻ ngang dọc
trên đường, bằng đủ loại chữ. Bất cứ người nào bị họ gọi tới cũng run như cầy sấy,
trước những ánh mắt hừng hực căm hờn – một sự căm hờn rất an nhiên không cần
căn đế và lí trí.

- Thưa thày, xin thày đi ngay cho, trăm lạy thầy, xin thày đi ngay cho.
Gia đình người chủ trọ, đồng thời là phụ huynh học sinh của bố tôi chắp tay lạy ông
như tế sao. Vào lúc đó, sự xuất hiện của bất cứ người lạ mặt nào cũng có thể làm cớ
cho những kẻ ghen ghét trả thù: Có liên lạc với bọn địa chủ, có quan hệ với bọn
Quốc dân đảng trốn tránh, có hiện tượng khả nghi chống phá cách mạng... vân vân
và vân vân...
- Thưa thầy, chúng tôi biết cư sử thế này là lỗi đạo, nhưng thày thương cho.

Vợ chồng thân chủ dúi vào tay bố tôi một gói giấy nhỏ, trước khi ông quay đi, rồi họ
đóng cửa. Bố tôi gọi trả lại món đồ, nhưng cánh cửa vẫn im lìm. Lát sau, có tiếng học
trò run run nói qua khe cửa:
- Thưa thày, thầy cầm theo độ thân. Thế nào cũng có lúc cần. Bố mẹ em bảo thế.

Hơi thở của đứa bé cũng run run theo lời nói. Rồi có tiếng chân nó chạy qua sân, trở
vào. Bố tôi nhét gói đồ vào túi áo, tiếp tục đi. Lúc đó, trời vừa sẩm tối. Giờ các đội du
kích chưa tuần tra ráo riết. Ở bến xe phố huyện một người ngồi úp nón ngủ. Chợt
ông ta lật chiếc nón chào bố tôi:
- Thầy giáo đi đâu?

Bố tôi dừng lại, nhận ra ông xích lô quen thuộc. Trước đây, mỗi lần bố tôi ở quê lên,
ông thường chở bố tôi về trường. Thấy bố tôi im lặng, ông ta liền nói:
- Thầy giáo đừng ngại tôi. Xưa thày dạy chữ cho học trò, tôi đạp xe chở khách kiếm
cơm nuôi vợ. Thời thế đổi thay, kẻ bất lương mới khuấy đục nước kiếm mồi, con
người ăn ở hẳn hoi đặt chữ đức lên trên chóp nón.
Bố tôi đáp:
- Cảm ơn bác. Nhưng chính tôi cũng chẳng biết đi đâu. Có người đồng nghiệp là anh
Tuấn...
Ông xích lô cắt nhời:
- Thày Tuấn con ông bà nước mắm Vạn Vân đi rồi. Chính tôi chở thầy ấy lên bến xe
tỉnh tháng trước.
Hai người im lặng. Lúc ấy, thấp thoáng có một đội tuần tra ở phía đầu bến. Ông xích
lô bảo:
- Thày cứ ngồi lên xe, tôi đạp. Đứng thế này, họ lại ra hỏi giấy má lôi thôi.

28
Những Thiên Đường Mù

Bố tôi ngồi lên xe, ông thủng thẳng đạp về phía cuối bãi. Khi hai người đã ra tới tỉnh
lộ, ông ta nói:
- Tôi chắc dưới quê không yên thày mới lên đây. Nhưng ở đây cũng nhộn nhạo lắm, ở
lại thày sẽ gặp sự khó. Trường thày dạy vẫn mở cửa nhưng số thầy cô cũ chẳng còn
lại bao lăm. Thôi, cổ nhân đã dạy: “Cùng tắc biến.” Mạng thày đã tới ngày phải ly
hương.

Bố tôi chỉ nói được một câu:


- Cảm ơn bác.
Rồi không nói thên lời nào nữa. Ông xích lô cứ đạp xe dọc tỉnh lộ. Tới ngã ba đường,
ông cúi xuống hỏi:
- Thầy mạng gì thế?
- Mộc.
Ông xích lô lẩm bẩm tính rồi bảo:
- Thủy sinh Mộc, dưỡng mộc. Tôi chở thày tới bến sông. Ở đó có đò dọc, mua một
xuất đi tận bến năm đồng rưỡi. Ngồi hết ba ngày.

Ông dấn lên đạp. Chiếc xe bon bon về phía Tây Nam. 17 cây số rưỡi, tới bến Còn.
ông xích lô dừng lại, cho bố tôi bước xuống. Lúc đó, khoảng 9 giờ tối, sao chi chít
trên trời. Những con thuyền dưới bến im lìm như đã ngũ. Hai người cúi chào nhau. Bố
tôi lần túi áo lấy tiền trả. Ông xích lô cầm một tờ giấy bạc, nói:
Tôi cầm một đồng để thày khỏi băn khoăn. nhưng tôi lại guở thầy dồng này làm tiền
âm phủ mai sau. Khi nào mồ tôi xanh cỏ, thầy hãy mua vàng thoi, bạc nén, hương
ngát, hoa tôi cúng cho vong hồn tôi mát mẻ. Thôii thầy xuống đò cho may mắn.
Mong cho thày vạn sự bình an.

Ông đặt lại tờ giấy bạc vào lòng tay bố tôi, rồi quay xe đi. Bố tôi đứng nhìn theo, cho
tới khi người và xe chìm trong đm tối. Đưới bến, có tiếng gọi vọng lên:
- Ai đợi í í... Có đi đò dọc thì xuống.

Một ngọn đèn chai từ trong khoang thuyền được đặt ra ngoià sạp. Cái đầu vấn khăn
của người đàn bà cũng nhô lên. Bố tôi bước xuống bến.
- Nhà ông đi đâu?
Bố tôi lúng túng, rồi đáp lại một câu chẳng ăn nhập gì:
- Tôi dạy học.
Người đàn bà hỏi gặng:
- Dạy học ở đâu ta?
Bố tôi bảo:
- Phố huyện.
Bà ta hỏi:
- Muốn lên đò ngược hay đò xuôi?
Bố tôi đáp:
- Thế nào cũng được.
Một giọng đàn ông gay gắt trong khoang thuyền:
- Ngược cũng được, xuôi cũng được là thế nào?
Khoảnh khắc im lặng trôi qua, rồi giọng đàn ông với lên:
- Chắc là quân địa chủ, phú nông trốn làng. Có giấy tờ không?
Bố tôi đáp:
- Tôi là giáo viên tiểu học. Tôi có căn cước đây.
Người đàn bà vấn khăn gạt đi:
- Giấy má làm khỉ gió à? Đây chẳng cần giấy má gì hết. Nhà ông ngược hay xuôi?
Bố tôi buông một tiếng liều:
- Ngược.

29
Những Thiên Đường Mù

Bà ta nói:
- Hai chục.
Bố tôi bất giác buông tiếng thở dài:
- Trời ơi, cả lưng vốn chị tôi cho có 26 đồng. Xuất đò thường chỉ năm đồng rưỡi thôi
mà.
Người đàn bà gắt gỏng đáp:
- Đò thường mặc đò thường. Nhà ông có đi không?
Chắc hẳn lúc ấy bố tôi đứng im lặng, đắn đo hơi lâu, nên người đàn bà hạ giọng:
- Thôi, bớt cho hai đồng. Nhà ông đưa 18 đồng rồi lên đò.

Bố tôi không còn tính thêm nữa. Ông đếm đủ 18 đồng đưa cho người chủ đò rồi vào
khoang, có một ông lão tóc bạc như cước với đứa cháu trai 14 tuổi. Họ ngồi giữa
những bao khoai khô, im lìm như tượng. Người đàn bà chủ thuyền xếp cho bố tôi
ngồi cạnh hai ông cháu họ rồi bảo chồng:
- Ngược.

Gã đàn ông không rõ mặt, lùi lũi bước lên sạp mũi, dóng mái chèo. Con thuyền vẽ
một nửa vòng tròn ướt loáng ánh sao, rồi từ từ rẽ nước đi. Đò dọc đi suốt ba ngày ba
đêm. Hai ông cháu nhà kia xuống một bến nhỏ, vào buổi chiều ngày thứ ba. Họ đi
tìm trại của một người bà con đã sinh sống lâu năm, bằng nghề trồng cây trám, cây
trẩu và chăn bò. Bố tôi, tuân theo ngọn gió của định mệnh, bước xuống bến đò cuối
cùng, vào lúc sao hôm vừa mọc.

Bến đò, trơ trụi hai nóc nhà, một quán nhỏ bán quà, một ngôi lều sơ sài vách nứa
của gã khùng làm nghề đánh xe trâu. Bố tôi xin trú nhờ vợ chồng chủ quán hàng, họ
vốn người Kinh phiêu bạt lên đây từ thời kháng Pháp. Không con cái, lại có oán thù
với dòng họ, hai người không trở về làng mà dựng túp lều ở tại bến sông hiu quạnh,
ngày gói vài chục bánh chưng cho khách qua đường. Đêm đêm ngồi vót nan rổ đan
thúng, chờ phiên chợ. Họ có một khi vườn rộng, trồng cây ăn quả, cả lạc, vừng, đậu
xanh, đậu đen. Mỗi thứ một vạt. Mùa mít, người vợ gỡ từng thúng hạt đồ chín rồi
phơi khô, cất vào chum ăn dần. Bố tôi đã ở lại với họ chừng nửa tháng. Họ tốt nhưng
tham tiền. Khi đã tiêu hết 8 đồng bạc, bố tôi không thể cầm bát cơm của họ lên ăn,
dù đó chỉ là thứ cơm ghế quá nửa sắn khô, ăn với vừng chườm. Vả chăng, cả hai
người đều lầm lì, khóhiểu. Dường như không bao giờ họ trò chuyện với nhau. Làm
bánh, mở quán, nấu cơm, dọn cơm, bán hàng, vót tre, đan thúng... họ như hai cỗ
máy di động dưới một mái lều. Ngay đến khi nhìn mặt nhau họ cũng không nhìn. Bố
tôi lờ mơ đoán rằng trong quá khứ, có một tội ác nào đó liên quan tới hai người, liên
quan tới cái lý do khiến họ phải rời bỏ quê quán ở lại đây. Quá vãng ấy liên kết họ
nhưng đồng thời đào một vực sâu giữa hai tâm hồn, nó trói buộc hai số kiếp nhưng
lại chia lìa hai trái tim. Bởi lẽ đó, cuộc sống chung của họ ngầm chứa những nọc độc.
Làn ám khí quẩn tụ dưới mái lều khiến bố tôi lo sợ. Người đã biếu ông chủ quán bộ
quần áo lành nhất rồi ra đi, đồng tiền cuối cùng đã hết. Bố tôi mở cái gói nhỏ bố mẹ
cậu học trò đưa tặng. Trong ấy, có một sợi dây chuyền vàng.
- “Mạng ông là Mộc. Thủy dưỡng Mộc. Cứ theo sông mà đi...”

Nhớ lời ông xích lô, bố tôi ngược theo sông, lần lên mãi. Vùng ấy, toàn bản người
Mường. bản đầu tiên rất nhỏ, dân cư sống bằng nghề trồng lúa nương, dệt lanh.
Nhưng bản thứ hai rất trù phú, dân Mường vừa trồng cây, chăn nuôi gia súc, vừa
buôn bè và đủ loại hàng hóa. Ở bản đó, sợi dây chuyền có giá trị. Nó đưa bố tôi, từ
địa vị của một kẻ lang thang làm thuê kiếm từng bữa tới địa vị người con rể trưởng
ông phó chủ tịch bản. Bố tôi dạy chữ quốc ngữ cho lũ trẻ con nhà khá giả, hướng dẫn
đám thanh niên những kiến thức khoa học mà ông có. Ở đấy, ngoài các loại chiêng,
cồng của dân tộc Mường, người ta có cả một cây ghi ta và hai cây đàn mandolin. Hồi

30
Những Thiên Đường Mù

dạy học ở huyện, bố tôi thường chơi cả hai loại nhạc cụ này. Vậy là, nghiễn nhiên,
ông trở thành một bậc trí giả cao sang, một nghệ nhân đáng kính trọng của bản.

Ông có đứa con trai ngay năm đầu tiên làm rể vị phó chủ tịch. Qua năm sau, ông có
tiếp đứa thứ hai. Cuộc sống cũ, với bão tố đã lùi xa. Cơn dông mệt nhoài nằm dưới
vạt cỏ ướt. Nước hồ đã lắng lại, những cặn bùn, những rác rến, những bèo bọ. Năm
tháng qua. Nhưng rồi năm thứ sáu, kể từ ngày bố tôi rời làng đi, chợt một gã bán
hàng rong lạc tới bản Mường. Gã bán đủ loại, từ cá mắm khô tới thuốc ho gà, cam
Hàng Bạc cho trẻ nhỏ...

- Ai mua hàng xuống thang mà mua... ai mua hàng...


Gã có giọng rao hàng vui vẻ, bỡn cợt. Cứ rao một câu tiếng Kinh xong, gã lại rao một
câu tiếng Mường. Nghe vui tai, bố tôi gọi gã lên nhà. Giáp mặt, chợp ông nhận ra gã
là người làng bên, chỉ cách làng tôi một bờ mương.
- Ở đây, ở đây chơi vài ngày, tôi sẽ nuôi anh, tôi sẽ mua cho anh nửa gùi hàng.

Bố tôi đã nuôi gã bán hàng như một thượng khách, ngày ba bữa gà luộc với rượu.
Sang ngày thứ hai, ông thịt một con dê. Gã bán hàng săm sắm làm món tái, cũng
nộm rau thơm, cũng thính giã, cũng lá chanh, cũng tương chấm... hệt cách nấu ăn
dưới xuôi. Ngày thứ ba, thợ săn trong bản biếu một đùi nai lớn. Gã bán hàng rong,
lần đầu trong đời gặp may, cười hơn hớn. Kho chuyện tiếu lâm có bao nhiêu, gã xổ
ra hết, khiến đám trai bản cười lăn cười lộn.

Đêm khuya, khách khứa về, gã không còn bông đùa nữa. Với giọng nói âm thầm của
kẻ đã từng phiêu bạt, gã kể cho bố tôi nghe những biến cố ở vùng quê. Cải cách
ruộng đất, sửa sai, phong trào đổi công, phong trào hợp tác hóa... Gã biết cô Tâm
tôi, gã cũng biết cả mẹ tôi. Lúc ấy mẹ tôi đã cầm cố ba gian nhà, lên tỉnh sống. Câu
chuyện triền miên như dòng nước. Trái tim người đàn ông thức dậy. Cuộc sống no đủ
êm ấm ở bản Mường không còn kìm giữ được bố tôi. Tuần lễ sau, ông cùng gã bán
hàng rong xuôi bè về. Từ làng quê, ông dò hỏi được chỗ ở của mẹ tôi, lọt trong ngõ
hẻm khu phố ngoại ô. Năm ấy, mẹ còn xuân sắc, con mắt không liếc ai, miệng không
cười với ai. Tình yêu của họ thức dậy. Như đám cháy sau hồi âm ỉ được dội thêm
dầu. Khoảng thời gian xa cách, nhớ nhung và hờn tủi, nỗi oan khiên của đời sống và
sự cay nghiệt của hoàn cảnh. Tất cả như những âm thanh dồn tích lại, cùng lúc cộng
hưởng, rung động tới từng tế bào. Bố mẹ tôi đã yêu thương nhau, ăn ở với nhau
trong căn nhà vá víu tồi tàn ấy. Và đẻ ra tôi...

31
Những Thiên Đường Mù

Chương 6

Chợt tàu rú lên hồi còi. Nó dứng lại đột ngột khiến tôi bị xô về phía trước. Người đàn
ông giơ tay đỡ tôi lại, rồi nhăn mũi cười. Những chiếc răng bạc lấp lánh. Nhờ ánh lấp
lánh ấy, tôi biết trời đã tối. Giọng hát của Pugatrôga ngân lên lần cuối, rối tắt hẳn.
Người đàn ông tắt máy cassette, bỏ vào túi đi đường. Ông ta vươn vai ngáp liền vài
cái, duỗi đôi chân dài như chân ngỗng . Bên ngoài, trời tím ngắt. Những thân bạch
dương kẻ vệt trắng trong đêm tối. Vài cây bồ đề ngã bóng um tùm trên mặt đất
vươn qua bờ rào gỗ thấp và những gò đất nhỏ nở chi chít một loài hoa ánh bạc. Ngôi
nhà cô lẻ, mái chóp nhọn có ống khói, trong ánh chiều chạng vạng, u hoài. Nó gợi
cho tôi biết bao ẩn ức về quá vãng, quá vãng của chính tôi, của cha mẹ tôi, bạn bè
thân thiết của tôi, xứ sở của tôi. Cái quá vãng mỗi con người từng trải nghiệm hoặc
liên đới với nó bởi một sợi dây thấm sâu của máu huyết và nòi giống. Con tàu vẫn
chạy, nhưng ngôi nhà lẻ loi bên hồ vẫn ám ảnh tôi. Tôi lại nhớ mảnh đầm ướt đỏ
hoàng hôn nơi làng quê, trong những chiều mẹ đưa tôi đi thăm họ mạc. Tuy đã ra
thành phố, mẹ tôi giữ nguyên tục lệ của dân làng. Đi xa về, phải có gói bánh, hộp
chè biếu bà con gần xa, phải thăm hỏi mọi người và kể chuyện mình. Tôi có nhiệm
vụ cúi chào người làng, gật đầu vâng dạ thật to khi họ hỏi chuyện, nhớ mối quan hệ
trong gia tộc để khỏi lầm lỡ khi xưng hô. Có người ít hơn tôi dăm ba tuổi nhưng tôi
phải gọi bằng cô. Có người hơn tôi hai ba chục tuổi lại cung kính gọi tôi là chị... Tất
cả đều khiến tôi bỡ ngỡ ngại ngùng. Nhưng phong cảnh nơi thôn mạc lại thân quen
với tôi mau lẹ. Ngay buổi đầu tiên, tinh mơ thức dậy, rón rén đi giữa những vòm cây
ướt sương, tôi rình con chim chích chòe có tiếng hót chang chói. Tôi rình những quả
ổi chín bị chim khoét rụng. Tôi đã mê mải ngắm không chán mắt lũ chim thân ái, khi
chúng rỉa lông cho nhau, khi chúng quên những khẩu cao su của lũ trẻ tai ác hoặc
nòng súng ghém của gã săn chim tham lam, cõi đời chỉ còn tồn tại trong niềm trìu
mến. Giữa bụi mây và gốc khế già, tôi ngồi thu lu trong bóng râm, nhìn con kì nhông
bò trên những cành mây xanh mướt, sắc da nó đổi từ màu nâu mốc thếch sang màu
lục của cỏ cây. Các bụi hoa móng rồng lúc nào cũng tỏa một mùi hương lạ lùng, kì
bí. Nhất là ban trưa, khi không khí bị mặt trời hun nóng.

- Ai kẹo mạch nha đổi tóc rối, lông gà, lông vịt đây?
- Ai kẹo mạch nha đổi mảnh kính vỡ, nồi đồng nát át... át...
Tiếng rao vọng qua các xóm ngõ, xen tiếng tre kẽo kẹt. Người đàn bà gánh gánh
hàng đồng nát đi qua, đôi mắt lấp dưới vành nón, hai bàn chân lấm lem bụi cát. Tôi
hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, hồi mẹ còn bé có bà hàng đồng nát này không?
- Có. Nhưng bà lão ấy đã chết rồi. Còn bà hàgh đồng nát bây giờ là cô con gái đầu
của bà lão ấy.

Tôi nhìn mãi bàn chân của bà ta, to bè, sần sẹo và có những vệt đen lấm tấm như
than bột rắc lên. Trước đây vài chục năm, cũng đã có một bà lão gánh gánh hàng
lem luốc này, bước qua các lối xóm này, với đôi chân trần như thế.
- Mẹ ơi i i...
Tôi níu vạt áo mẹ định hỏi. Nhưng lại im lặng. Mẹ cúi xuống:
- Em bảo gì cơ?
- Không ạ.
Tôi đáp lúng búng. Thực ra, tôi định hỏi mẹ rằng liệu mấy chục năm nữa, tôi có sống
cuộc sống của mẹ bây giờ không? Nhưng tôi sợ. Cảm giác sợ hãi chạy qua sống lưng,
lạnh buốt. Lần nữa, tôi thấy mẹ cười. Hàm răng đẹp ánh lên một cách phí hoài. Rồi
mẹ bảo tôi:

32
Những Thiên Đường Mù

- Con chó con, chưa già đã lẩn thẩn. Thôi, đi ra sân mẹ tắm cho rồi còn sang nhà cô
Tâm. Cô vừa đi tỉnh Nam về, cho người sang nhắn.

Mẹ tắm cho tôi kĩ lưỡng, mặc bộ áo quần đẹp nhất, tức là chiếc sơ mi trắng cổ cánh
nhạn và chiếc quần âu bằng vải chéo xanh Trung quốc, có dây đeo. Kể ra, so với lũ
trẻ làng, ăn mặc như thế đã là tinh tươm lắm. Từ nhà tôi sang nhà cô Tâm chỉ vài
trăm bước. Cổng mở toang cả hai cánh, một bà già đang ngồi tuốt lạc bằng cặp néo
tre bên trong. Thấy mẹ con tôi, bà ngẩng lên:
- Dì đưa cháu vào chơi. Bà Tâm chờ trong nhà rồi đấy.

Nói đoạn. bà đưa mắt ngắm nghía tôi, tuồng như người ta ngắm một cái bình quí
trước khi mua:
- Chao ơi, giỏ nhà ai quai nhà nấy, giống bố quá hề. Thế này thì bà Tâm quí hơn
vàng.
Mẹ tôi cười, mắt sáng rỡ:
- Vâng, tạ ơn bà.

Mẹ dắt tôi vào sân. Sân rộng, lát gạch vuông khía lá nem, trong sang trọng nhưng
khác với sân mọi nhà trong xóm. Họ thường lát gạch hoặc láng xi măng trơn nhẵn để
phơi thóc. Bên trái sân là một tòa nhà kiểu mới, quét vôi vàng nhạt, phía trước có trụ
chống hiên rộng, trên đổ mái bằng. Bên phải sân là bức tường hoa chạy dài, án ngữ
tòa nhà ba gian, phân cắt sân với hai dãy cau. Đằng sau hai dãy cau là vườn quả, lấp
ló hồng xiêm và cam chiết. Khu nhà phụ rất lớn, nằm phía sau mảnh sân, ở bên trái
tòa nhà chính. Giữa khu nhà phụ với vườn cây là mái chòi lợp bằng tôn, che cái giếng
xây. Có cả trục quay nước, sợi dây nối với chiếc gầu tôn lớn đặt ngay trên nắp giếng.
Toàn bộ khu nhà gợi cho tôi cảm giác bề thế, khang trang nhưng nghiêm ngặt. Tất
cả đều sạch sẽ, ngăn nắp. Tất cả đều được tính toán một cách cẩn trọng. Nhưng lạnh
lẽo và nghiệt ngã. Giữa khoảng sân rộng là chậu hoa đinh lăng trơ trọi.

Cánh cửa chính bỗng mở. Một người đàn bà nhanh nhẹn băng qua sân, tới trước mặt
chúng tôi:
- Nó đây phải không?
Một giọng nói trầm, và nghẹn, khiến tim tôi lặng đi. Một đôi mắt mở rộng, đau đáu
nhìn như muốn xuyên qua thân hình tôi. làn môi khô mím chặt, nhưng từng hồi run
rẩy:
- Nó đây à, cô Quế?
Mẹ tôi đáp lại, cũng vẫn giọng nghẹn ngào:
- Cháu đấy, chị ạ.
Rồi mẹ bảo tôi:
- Con chào cô đi.
Tôi không dám nhìn thẳng vào đôi mắt sáng rực của cô, cất tiếng:
- Cháu chào cô ạ.

Cô Tâm bỗng quì xuống, mặt cô gần sát với mặt tôi. Tay cô rờ từ tóc, xuống thái
dương, lướt qua khuôn mặt, xuống vai tôi, dường như muốn tìm kiếm gì đó. Ngón
tay cô nhỏ, nhưng cứng và nháp. Mắt cô rực như hai ngọn đèn, tôi có cảm tưởng là
chúng rọi tới từng sợi mi, từng mụn ruồi li ti trên gương mặt tôi, sục sạo. Nhưng thái
độ kì quái đó không làm tôi bực. Tôi biết cô là người ruột thịt, cây cầu nối giữa tôi và
bố tôi, một tình yêu tôi chưa kịp biết đã vĩnh viễn chôn vùi trong bùn đất. Vì thế, tôi
đứng yên cho cô rờ rẫm, vuốt ve. Khuôn mặt héo úa của cô chắc chắn bình thường
rất nghiệt ngã, bỗng trở nên đờ đẫn, ngơ ngác. Cô lắp bắp:
- Hạt máu của... Cháu tôi...
Hai giọt nước mắt trào qua mi, lăn trên gò má đã sạm từng mảng. Những vết sạm,

33
Những Thiên Đường Mù

lẫn những chấm tàn nhang trên má cô khiến tôi phải cúi đầu xuống. Rồi chợt như tự
trấn an, cô Tâm đứng lên:
- Thôi, hai mẹ con vào nhà.

Cô thoăn thoắt đi trước. Dáng người cô gầy, dẻo dai. Gương mặt cô trở lại vẻ lạnh
lùng. Môi mím chặt. Tôi nhìn những vết nứt nẻ trên gót chân cô, và bị hút vào đó.
Những vết nứt sâu như chẻ hai gót chân ra nhiều mảnh, khiến chúng biến dạng, xấu
xí. Dáng đôi bàn chân của cô khá dẹp, thon nhỏ, gót tròn. Nhưng sự tàn phá của
công việc lao động nặng nhọc, của thời gian đã khiến vẻ đẹp ấy bị hủy hoại tàn
nhẫn. Giờ đây, mặc dù cô đã sung túc, cô đi đôi dép bằng nhựa trắng, thứ nhập của
Thái Lan, thật xa xỉ so với đám phụ nữ ở nông thôn, nhưng dấu vết nhọc nhằn vẫn
không che dấu được.
- Cô cho cháu ngồi vào mâm. Tôi lấy chai rượu.
Cô bảo mẹ tôi, giọng uy quyền của bà chị. Ngay gian nhà bên trái, một cái sập gụ
chân quì kê sát tường. Màu gỗ đen bóng như sừng. Những hình vẽ hoa lá khảm trai
chạy dọc theo mép. bốn góc, là bốn chùm nho lớn khảm bằng thứ vỏ ốc ngũ sắc. Cái
phản đẹp đến nỗi tôi ngại ngần không muốn ngồi lên đó. Tôi hình dung thứ đồ vật
quí giá như thế chỉ nên đặt trong các phòng triển lãm hoặc nhà bảo tàng. Dường như
biết được ý nghĩ ấy, cô Tâm giục:
- Hai mẹ con ngồi vào mâm.

Tôi thầm kinh ngạc. Cô là phù thủy chăng, dù quay lưng đi cô vẫn đọc được í nghĩ
của tôi một cách rõ ràng. Cô bước tới gian giữa, nơi bàn thờ sáng choang những lư
đồng lớn, lư đồng con, các bộ chân đèn, tượng Phật. Hai cây nến đỏ cháy hai bên.
một mâm ngũ quả đồ sộ đặt chính giữa. Phía sau, các hộp bánh, các loại rượu. Một
bình hoa huệ trắng thơm ngát. Cô Tấm lần lượt điểm các chai rượu chanh, rượu cam,
rượu Thanh Mai, rượu cà phê... Sau cùng, cô bảo:
- Ta uống nếp cẩm. Nếp cẩm tôi cất lấy cô Quế ạ. Cho cháu Hằng uống được.

Cô sắp những chai rượu lại rồi mở khóa cửa vào gian buồng bên phải, được xây chắn
với gian chính bởi bức tường. Lát sau, cô bê ra một bình thủy tinh lớn, chứa thứ rượu
nếp cẩm đặc sánh như hồ. Khệ nệ đặt chai rượu lên bàn nước, cô tìm cái phễu và
một vỏ chai không, chắt rượu từ bình ra. Xong xuôi, cô bảo:
- Nào, cô Quế so đũa.
Mẹ tôi lật lồng bàn lên. Mâm cỗ đầy tu ụ như cỗ ngày Tết. Gà luộc, gà rán, giò lụa,
chả quế, nem thính, nộm, măng, miến xào... Mẹ tôi bật kêu lên:
- Sao chị bày vẽ thế này? Còn những ai nữa?
Cô Tâm đáp:
- Ai vào đây? Chỉ mẹ con cô với tôi thôi. Bà Đũa ăn trước khi cúng. Bà ấy không chịu
được dói.

Cô nói, môi hơi mỉm cười. Tôi không hiểu nụ cười đó. Nhưng nó ẩn chứa sự khinh
miệt. Vén hai ống quần lụa đen, cô ngồi lên phản:
- Nào mẹ con cô cầm đũa lên.
Mẹ tôi lần lượt so đũa cho từng người. Cô Tâm rót rượu ra những chiếc chén sứ nhỏ
như mắt trâu, loại chén xưa người ta dùng uống trà ướp sen buổi sớm.
- Hôm nay cô đưa cháu về chơi, tôi làm mâm cơm cúng gia tiên và khấn hương hồn
chú ấy. Mong sao cho mọi vong linh được mát mẻ, phù hộ độ trì cho cháu Hằng.

Tôi bối rối. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình có một vị trí quan trọng như thế. Cô Tâm giơ
tay chỉ lên bàn thờ, bảo tôi:
- Đáng lẽ cháu phải khấn trước vong hồn tổ tiên và bố cháu. Nhưng cô làm lễ sớm,
vả lại cháu còn nhỏ nên cô khấn thay. Dăm ba năm nữa, thành người rồi phải nhớ

34
Những Thiên Đường Mù

mà lo giỗ Tết.
- Thưa cô vâng ạ.
Tôi đáp. Cô hài lòng, nói tiếp:
- Cháu biết nghĩa, cô mừng lắm. Đời cô, đời bố cháu không hoài hủy. Cô mất mát
nhiều, thua thiệt nhiều so với thế gian. Nhưng bây giờ, cô chẳng tiếc đời. Nào, cháu
uống đi.

Tôi nâng chén rượu . Rượu đặc sánh, màu tím đỏ, trong ráng chiều ánh lên, như một
thứ máu. Lòng thi thoáng qua nỗi lo âu. Những giọt rượu nếp ngọt lừ, nuốt xong rồi
còn đọng lại vị cay và tỏa ra mùi thơm rạo rực, phấn khích. Nhưng tôi thấy trong mỗi
giọt rượu ấy, một lời nguyền sâu xa, cay độc, giống như lời nguyền thiêng liêng của
những bộ lạc da đỏ xưa, sống trong khoảng rừng âm hiểm.

Trời chiều, tiếng người đi đồng về dong trâu trên các ngả đường thôn. Tiếng những
người đàn bà quát nạt, mắng chửi con cái:
- Thằng Tí, thằng Tèo đâu rồi, về ngay đây không chết với tao o o...
- Cha tiên nhân con đĩ Lan, cả đống bèo lù lù như mả thằng ăn mày ngoài bờ ao, mà
mày còn chải đầu chải tóc hả ả ả...

Tiếng vo gạo, vỗ rá đồm độp. Tiếng người giặt giũ bì bòm ngoài ao, tiếng la hét của
trẻ đang bơi lội. Mùi khói rạ, mùi gai bồ kếp cháy lẫn trong những đống trấu dấm,
mùi phân trâu tươi hăng xè, mùi ổi chín nẫu trong các khu vườn ấm nóng. Tất cả hòa
trộn với nhau, mỗi lúc mỗi nhạt, theo những ráng mây chiều hôm. Cuối cùng, bóng
tối lan trên các ngả đường, thôn xóm chìm vào một khoảng không gian êm ả. Tất cả
những âm thanh eo sèo, ỉ óc lắng xuống, tựa gợn bùn lắng xuống đáy hồ. Vòm trời
trở nên thanh khiết. Các ngọn tre đu đưa rì rào, ban phát cho thế gian giai điệu vô
cùng vô tận du dương và tĩnh lặng, giai điệu không hòa trộn, không đổi thay của
những vùng quê an nhiên, nơi mọi giông tố chỉ khuấy động các lớp nước, xáo trộn
bùn nhơ vào bèo bọt trong chốc lát, để rồi cuối cùng còn lại mảnh đầm xưa cũ, với
tiếng ếch nhái vang động trong bóng chiều, tiếng côn trùng nỉ non lúc canh khuya,
tiếng chân trâu, chân người bì bõm trên các cánh ruộng lúc rạng đông.

- Ra sân uống nước cho mát. Cô Quế xách cho chị phích nước, Hằng bưng cho cô bộ
ấm chén trên bàn.
Cơm xong, cô Tâm phân công hai mẹ con tôi. Còn cô mỗi tay xách hai cái ghế gỗ
cẩm lai, đem ra sân. Những sợi gân và các thớ thịt nổi thăn trên hai cánh tay rám
nắng của người đàn bà. Cô bước qua bậc tam cấp, nhẹ nhàng không để các thân ghế
va đập. Rồi cô đặt chúng giữa sân, cũng nhẹ nhàng như thế. Chỉ sức lực của những
người đàn ông thực thụ mới sánh nổi sức lực của cô tôi. Cô đưa tay vuốt nhẹ mấy sợi
tóc vương trên trán, ngồi xuống ghế:
- Chè tôi ướp hoa nhài. Vẫn bụi nhài ở giáp tường hoa. Ngày cô chú cưới nhau cũng
pha chè ướp hoa nhài ở đấy.
Mẹ tôi hỏi:
- Từ dạo ấy mà bụi nhài vẫn còn dưới chân tường hay sao?
Cô Tâm nhếch mép, không ra cười, không ra mỉa mai:
- Tôi mới gây, cùng năm xây lại nhà này.
Mẹ tôi nhẩm tính:
- Năm năm... À, để em xem... ngót nghét năm năm, phải không chị?
Cô Tâm đáp:
- Năm năm hai tháng rưỡi.
Cô rót nước. Mùi nhài tỏa trong không gian, điệp với hương cau, với mùi thơm của
những đóa hồng, tường vi phía sau vườn cam. Cô tôi khoanh tay trước ngực, bắt
chéo chân lại rồi kể:

35
Những Thiên Đường Mù

- Hồi cải cách, cô biết đấy, ngôi nhà này chia làm đôi, một nửa cho thằng Bích, nửa
cho con mụ Nần. Chúng đuổi tôi ra cái lều của vợ chồng thằng mõ, kề với đình làng.
Trong tay chỉ có ba sào ruộng xấu, trâu không, bò không, cày bừa không. Bòn được
vài chục bạc đưa cả cho chú Tốn. Nhiều đêm không ngủ, tôi ngồi nhìn đám ruộng
trắng, nước mắt ứa hai hàng. Giá cứ đâm đầu xuống giếng làng là rảnh chuyện. Mà
duyên nghiệp ma quỷ đưa đón, ngày nào cũng dăm sáu bận đi qua cái giếng trước
cửa đình. Nước trong leo lẻo cứ như mời gọi. Soi mãi bóng xuống mặt nước, tôi lại
nghĩ: “Chết thì khỏe xác, nhưng mà hèn. Những kẻ bức hại mình, nhăn răng cười
trước mộ. Phải sống, để nhìn ngày tận mạt của chúng. Phải sống, để xoay ván cờ với
Trời già.” Hồi ấy, tôi còn cặp áo lụa mỡ gà mới nguyên, chưa xỏ ống tay. Tôi đem
sang chợ huyện bán, lấy tiền mua hai gáng khoai sọ. Hết thóc, ăn khoai sọ mát ruột,
đủ sức làm đồng từ buổi mai tới quá trưa. Tôi đi cấy cho người ta, năm công cấy xin
đổi một công cày. Cày bừa xong, tôi sục ruộng cho nhuyễn như bột bánh trôi rồi mới
cấy. Lúa kín ruộng quay ra lo phân. Chịu đổ mồ hôi, ruộng chó ỉa cũng thành ruộng
nhất đẳng điền. Lúa lên xanh, tôi cắp nón sang thôn Hà làm thuê cho bà cô họ

Bà cô tôi có nghề làm miến bằng củ rong riềng. Hồi ở làng, cô thấy rong riềng chỉ để
ăn độn những ngày đó kém. Không ai ngờ rằng mài rong, lắng bột, tráng như bánh
đa rồi phơi khô thái nhỏ, nó trở thành một thứ miến sợi sai, trong suốt, nấu rất ngon.
Dạo mới làm thuê, ngày nào tôi cũng ôm cối đá vành to như chiếc mẹt, ngồi quay
bột lại. Bột rong riềng mài và lọc rồi, phải xay thêm cho nhuyễn. Sau tôi học được
cách lắng bột, cách pha thuốc tẩy cho bột trắng, cách tráng và thái bánh thành sợi
nhỏ. Tiền công dành dụm được, tôi mua một bộ đồ nấu và vài tạ rong riềng làm vốn
đầu tiên. Mò mẫm cả tuần học nghề mộc, tôi cũng tự đóng được cái trục mài rong
riềng quay tay. Một mình, vừa làm bột, tráng bánh vừa thái thành sợi, đưa giao hàng
lên chợ huyện. Tôi kiếm được món tiền kha khá. Dịp ấy, rong riềng rẻ thối ra, tôi
mua luôn hai tấn, chứa đầy nhà. Không có chỗ kê chõng, đêm tôi vác manh chiếu ra
đình làng ngủ. Có đồng tiền nào dắt kỹ trong bụng, còn dao phay mài sắc kê dưới
gáy phòng thân, cứ thế, đặt lưng xuống là tôi ngủ cho tới bảnh sáng, không biết sợ
hãi gì.

Chịu khó làm cho hết hai tấn rong riềng, lưng vốn tôi đã nặng. Tôi mua một cái máy
ép miến, thay cho cách thái khó nhọc, lại tốn thời gian. Cả huyện, lúc ấy chỉ có ba
chiếc máy ép. Thuốc tẩy đang rẻ, nhân công đang rẻ, tôi thuê người tiếp tục làm
miến còn mình vác liềm ra ruộng cắt lúa. Mùa ấy, lúa của tôi tốt nhất làng. Hết mùa
lúa, đội sửa sai về. Họ quy lại phần gia đình tôi là trung nông, trả lại nhà và năm sào
ruộng tốt.

Hơn một năm trời, tôi mới lại đặt chân vào ngõ nhà mình. Xưa kia, có mẹ, có em.
Giờ, một thân thui thủi. Ngôi nhà xưa khang trang, sạch sẽ. Giờ tan hoang như mồ
vô chủ. Gã Bích và mụ Nần đã phân chia ranh giới bằng tấm phên tre. Mỗi đứa chiếm
một gian rưỡi. Khu nhà ngang và bếp, chúng cậy gạch, đập tường bán ăn ngay từ hồi
đầu tiên. Rồi mỗi đứa nhóm một cái bếp con bằng ba hòn gạch vỡ ngay trong gian
nhà ở. Người nằm trên, gio trấu, khói than, muội bay bên dưới. Rồi ngan ngỗng nuôi
không chuồng, ỉa vãi cùng nhà, cùng sân. Khi tôi nhận nhà, lớp gạch lát sân và lát
khu nhà ở cũng đã bị cạy nham nhở, cả hai đứa đều kịp bán vét trước khi buộc rời đi.
Bỏ ra ba ngày dọn dẹp, tôi thu xếp nhà cửa cho gọn gàng rồi chuyển đồ lề làm miến
và khoai riềng về. Những người làm công cho tôi đã trở về nhà. một mình một máy
mài, một nồi nấu, một máy ép, tôi làm thâu đêm. Canh ba chưa nằm, canh năm đã
thức. Đầu tiên còn thèm ngủ, sau quen mắt cứ trơ trơ như mắt tương gỗ. Xưa kia,
chưa bao giờ tôi ham làm giàu đến thế. Cô biết đấy, hồi còn mẹ, cụ vẫn bảo tôi hay
lam hay làm, nhưng không có máu tham tiền.

36
Những Thiên Đường Mù

Khi công việc nông tang rảnh rỗi, tôi hay rủ mẹ đi lễ chùa hoặc đi hội. Hội chùa
Hương, hội chùa Thầy, hội Gióng, xa xôi mấy cũng tìm đường đi. Không lễ lạt, hội hè,
không biết tới cả ngày rằm, mồng một. Trống chèo đánh nhức đình làng cũng mặc,
văn công tỉnh về diễn trên phố huyện, người ta rủ nhau đi từ bữa cơm chiều tôi cũng
bưng tai làm ngơ. Ngày nắng đổ lửa, cho tới ngày mưa chết cò, tôi vẫn trần lưng ra
làm việc. Vừa lo cấy lúa, vừa lo đổ đất bứng cây vườn, vừa làm miến bán. Chẳng lúc
nào ngơi tay. Đá còn có lúc đổ mồ hôi, vậy mà năm năm liền tôi không ốm. Cũng lạ
cho con người.

Cô ngừng lại. Trong ánh chiều chạng vạng, mắt cô rực lên như than. Mẹ tôi rót nước
cho cô. Hai người cùng thong thả uống chè, im lặng. Nhưng khoảnh khắc ấy chỉ là
một dấu ngừng trong bản nhạc. Tia lửa lóe lên trong hai hố mắt sâu, cô Tâm nhìn
hàng cau thẳng tắp bên kia tường. Chúng in vào trời đêm, những đóa hoa đen kì bí.
Bỗng nhiên, cô dằn mạnh chiếc chén cầm trong tay xuống khay nước, rồi cô nói:
- Tôi muốn tôi phải giàu có. Ngôi nhà của tổ tiên phải được tu tạo khang trang hơn
xưa, cho người đời mở mắt. Giá cần xé xác mình ra, tôi cũng làm, miễn đạt được
điều tôi ao ước. Cô thấy đấy, tôi đã xây ngôi nhà này, bức tường hoa này, trồng lại
dãy cau, gây lại bụi nhài. Vườn ổi xưa phá đi thay bằng cam đường và hồng xiêm.
Tới mùa, dân buôn từ trên tỉnh về tận nơi, thầu cả vụ. Thềm nhà tôi, đổ ba khối đá,
cao nhất làng. Gạch lát nền là gạch hoa loại một gửi mua từ Hà Nội. Bộ sa lông cẩm
lai, tôi cũng đặt của một tay phó giám đốc nông trường cà phê Buôn Mê Thuột ở làng
bên. Gạch lát sân là gạch lá nem dùng lát hè phố, chỉ cung cấp cho các công trình đô
thị. Người làng bảo bà Tâm chơi ngông. Tôi gật đầu: “Phải, chơi ngông cho bõ những
ngày khổ ải.” Nhà cửa, sân xướng xong xuôi tôi thuê thợ đồng đúc lại toàn bộ thứ đồ
thờ gia bảo ngày xưa, bọn thằng Bích mụ Nần đã lấy. Bọn người ấy, bán tống bán
tháo tất cả mọi thứ đồ quí giá đi, chỉ để đổi lấy một cút rượu, một bữa thịt cho sướng
miệng. Cô biết, người ta đã có câu “Nhà giầu ham mần, nhà bần ham ăn...” Chúng
nó khá được lên đâu. Những kẻ không dám chịu đói một bữa để tát cố cho đầy ruộng
nước, không dám mất một đêm ngủ để cày cho kịp mùa cấy. Thằng Bích bạt xuống
tận thôn Đông, sống lay lắt ở đó. Còn mụ Nần vẫn ở cuối làng, ngày mai tôi dẫn cô
tới xem. Nó ụ ra như một cái bị thịt, ăn mặc rách rưới bẩn thỉu, nhà dột tứ bề không
đánh nổi tấm tranh lợp mà túm ni lông lên che. Nhưng thôi, nghĩ cho cùng, bọn
người ấy chẳng đáng chấp làm gì. Cái thằng đáng căm là thằng Chính. Giờ nó ở đâu?

Mẹ tôi đáp, giọng ấp úng:


- Cậu ấy ở Quang Ninh, hình như đang xin chuyển về Hà hội.
Cô Tâm hỏi:
- Nó vẫn tới nhà cô à?
Mẹ tôi đáp:
- Chín mười năm bặt tin tức. Tháng trước, cậu ấy mới tìm đến chỗ em. Cậu ấy cần tới
số tiền bán nhà.
Cô Tâm nói:
- Nó không dám vác mặt về làng. Những người oan ức, người ta rạch mép ra.
Mẹ tôi khẽ nói:
- Cậu ấy phải nghe lệnh cấp trên.
Cô Tâm đáp:
- Cấp trên ra lệnh thế họ đã chẳng phải sửa sai. Nhưng tại sao cô còn bênh nó chằm
chặp như vậy? Cô có biết vì cớ gì chồng cô chết hay không?
- Em sinh cháu được hai tháng, nghe tin nhà em ngã nước sốt rét. Không đưa kịp
xuống tỉnh.
Cô Tâm ngắt lời mẹ tôi, nóng nảy, đột ngột:
- Phải, ốm chết. Cái lý ấy lừa người ta dễ nhất. Hồi đầu, tôi cũng bán tin bán nghi,
nhưng đành chấp nhận. Năm ngoái tôi sang làng bên đặt người khảm lại cái phản,

37
Những Thiên Đường Mù

tình cờ gặp một người bán hàng rong. Chính anh ta đã lên mường chú Tốn ở, kể mọi
chuyện trong làng ngoài xã. Rồi về đây. Tôi đã cho chú ấy địa chỉ của cô. Hồi cô sắp
ở cữ cháu, chú ấy trở lên, toan thu xếp với người vợ Mường để về xuôi một thời gian
nuôi cô và cháu Hằng. Nhưng người đàn bà kia không chịu. Chắc chắn giữa hai người
có cãi vã hoặc xô xát. Chắc chắn người đàn bà kia đã sỉ nhục hoặc dày vò chú Tốn.
Nó là em tôi, tôi biết. Nó có thể chịu đói, chịu khát, chịu rét nhưng không chịu được
nhục. Một buổi sớm nó bỏ vào rừng, rồi hai hôm sau, người trong mường đi săn tìm
thấy xác nó ven bờ suối. Đúng hôm ấy, cái anh bán hàng rong tới, và chứng kiến
cảnh người ta đưa xác nó về làm ma...

Cô ngừng lời. Mẹ tôi cúi mặt, khóc sụt sịt. Mẹ móc túi tìm mãi không thấy mùi xoa,
liền đưa ống tay áo gạt nước mắt. Cô Tâm nói tiếp:
- Nếu em cô không đối xử với nó tàn tệ, làm sao nó phải bỏ làng ra đi, làm sao nó
phải chịu kiếp sống lang bạt, làm sao nó phải chết oan khốc như vậy? Không, tôi
không chịu được. Nếu cô còn nhìn mặt cái kẻ đã giết đứa em trai tôi.
Mẹ tôi nức nở. Hồi lâu, mới cất được lời:
- Em xin chị, em lạy chị, oán thù chỉ nên cởi đừng nên buộc.
Cô tôi im lặng, không đáp. Mắt cô nhìn trừng trừng vào vườn cam. Giờ ấy, các vòm
lá đen kịt, không còn rõ hình thù, chỉ còn những khối đen nặng nề chồng chất lên
nhau. Trong đám bóng cây dày đặc, một con đom đóm bay ra, lượn vòng, rồi mất
hút. Cô Tâm chợt cười lên tiếng, cười gằn, rất khẽ, nhưng khô rợn người:
- Sao dễ dàng thế được? Còn mẹ tôi, lúc chết đi bà cụ gọi tên đứa con trai, nước mắt
trào ra mà mắt không nhắm được. Còn bao nhiêu...

Cô chợt im bặt vì nghẹn lời. Tôi ngồi im lặng trong bóng tối, không dám thở mạnh, vì
cảm thấy những hơi thở nóng hổi, dồn dập của người đàn bà ngồi bên lan truyền.
Người ấy chung máu huyết với máu huyết của tôi. Người ấy là một phiên bản đã thất
lạc của cha tôi. Người ấy đã tự tắt đi ngọn lửa sống, những vui buồn, nhớ nhung,
thương cảm, tình yêu, sự sinh nở, hạnh phúc và nỗi đau của cuộc sống trần gian.
Người ấy đã biến thành cỗ máy của ý chí phục thù, chỉ còn vận hành vì mục tiêu đó,
nghiền nát tất cả mọi vật cản trên đường đi. Đôi mắt sáng rực như hai hòn than
trong hốc mắt thâm quầng. hai gò má nhô cao với những vất sạm, những đám tàn
nhang. Những nếp nhăn chân chim sau đuôi mắt. Món tóc bạc lấp giữa những món
tóc khô xác, chẳng ra đen cũng chẳng ra màu hung...

Một ngôi sao rơi xuống, vạch lửa nơi chân trời. Con đom đóm ban nãy lại nhào từ
bóng tối ra, lượn vòng quanh sân rồi biến sau bức tường. Hương thơm của những
đóa tường vi dâng lên, ngập tràn không gian, như một thứ nhựa dính kết, dung dịch
không sắc màu nhấn chìm con người trong làn nước nhức nhối âu lo...

38
Những Thiên Đường Mù

Chương 7

Người đàn ông ngồi bên tôi bỗng ngáp rất to. Ông ta không buồn giơ tay che miệng,
rồi nhắm mắt lại, ông ta gối đầu lên chiếc áo va rơi vắt trên thành ghế mà ngủ. Tàu
đang chạy qua một một thị trấn không tên. Chỉ có vài ba dãy phố, với cây cầu ngắn.
Con sông nhỏ như một lạch suối, mất hút trong bóng đêm. Đám cỏ ven bờ in xuống
những vệt đen ngoằn ngoèo. Lát sau, con tàu đã bỏ lại ngọn đèn cuối cùng của dãy
phố xép. 2 bên đường ray, lại là những cánh đồng phẳng lặng, trải dưới ánh bạc của
tinh tú. Giống một vùng biển nhợt nhạt. Biển u buồn. Phong cảnh nào rồi cuối cùng
cũng đến như nhau. Cái đông đầu tiên trên đất Nga tôi đã đứng 6 giờ đồng hồ liền
bên khung cửa sổ nhìn tuyết rơi. Trời rét. Nhưng các tấm cửa kính trong suốt, tôi dán
mắt vào đó, nhìn một thế giới của hoa phù dung bay lượn, tuôn chảy, làm ngập mặt
đất bằng sắc trắng tinh khiết và lạnh lẽo, làm cho những tâm hồn trở nên e ngại và
mềm yếu, làm cho những cơn cuồng vọng của con người nguội bớt, cô đặc lại, được
lọc cho tinh sạch hơn. Trong khi đó, nắng như bay cao lên, sáng nhẹ, rực rỡ như
vàng lỏng, chói lói và mỏng manh như giấc mơ thời thơ ấu. Khung cảnh ấy làm tim
tôi đau nhói. Cái gì thái quá cũng làm con người đau. Hồi nhỏ, tôi đã trải qua cơn đau
ấy một lần. Ngày đó, mẹ tôi đưa tôi đi lễ ở Côn Sơn. Trên đường về, xe vòng qua Bãi
Cháy. Tôi ngồi ngủ gà ngủ gật trong tay mẹ. Chợt ôtô đỗ, và một giọng nói vang bên
tai:
- Tỉnh dậy đi em, tới nơi rồi.

Tôi dụi mắt, choàng dây. Ngay tức khắc, vịnh Hạ Long hiện ra. Biển lặng trong
sương, không một gợn sóng xao, không một cánh buồm, không tiếng rì rào của cây
lá, không tiếng thì thầm của sóng nước. Sự im lặng không cùng ngưng đọng trong
không gian màu lam. Những trái núi giống những thỏi mực đen in xuống mặt nước.
Chúng giấu trong nỗi trầm mặc đen của chúng muôn ngàn huyền thoại, những uẩn
khúc lịch sử, những chứng tích câm lặng u uất, những châu báu ngà ngọc bị chôn
vùi. Các vòm cửa hang ngó nhìn cõi đời với con mắt chột độc địa. Trong mỗi con mắt
ấy, lưu trữ một ngàn hình ảnh của các anh hùng đã tử vong, của các trí nhân bị ám
hại, của các tên cướp sống cuộc đời hoang dã sầu thảm. Nơi chân trời, bị phân cách
bởi các trái núi cô lẻ, làn mây ngọc thạch vắt ngang. Ấy là màu mây của buổi lê
minh. Tôi nhìn mãi làm mây đó, như một chiếc vòng ngọc khổng lồ ai ném xuống thế
gian. Màu xanh lá non trộn lẫm màu khói, được lọc bởi ánh trời, đẹp như thế chỉ có
một lần trong vũ trụ. Phải, chính vì cảm nhận vẻ đẹp ấy, trái tim non nớt của tôi đã
đau, dù tôi chẳng hiểu duyên cớ.

Bây giờ lại tuyết trắng xứ người. Cái đẹp không có biên giới, cái đẹp thống trị với
quyền uy như nhau. Xứ người, tuyết trắng bay như thể có một trời hoa phù dung đổ
xuống. Nhưng rồi, sau lưng tôi có tiếng kêu ré lên:
- Đứa nào lấy cái đầu máy khâu của tao dưới gầm giường?
Tôi giật mình quay lại. Cô ta nhớn nhác đưa mắt nhìn khắp lượt bọn tôi. Tôi, đứng
bên cửa sổ. Hai cô khác đang trùm chăn trên giường. Cô nào cô nấy tung chăn thò
đầu ra:
- Vớ vẩn, đầu máy khâu nào?
- Đầu máy khâu 69 rúp, thằng cháu tao ở Kháckốp vừa gửi hôm qua. Lúc ấy, tụi mày
đi xuống cửa hàng bánh mì.
- Làm sao chúng tao biết được?
- Nhưng cả phòng chỉ có bốn đứa mình. Chẳng lẽ...
Cô ta nói, và mặt đỏ lên. Có lẽ vì lo, vì tức, cả vì xấu hổ, tôi bảo:
- Sáng nay bọn mình làm bún ăn chung. Chiều qua, mày tiếp khách ở nhà, chúng tao

39
Những Thiên Đường Mù

đi cửa hàng, rồi về xem xiếc. Chín rưỡi tối mới ăn cơm. Chẳng có ai kịp biết mày có
máy khâu và để đâu hết.

Mặt cô ta đỏ hơn lên, gần như người mắc chứng xung huyết. Rồi, cô ta phân bua:
- Rõ ràng tay tao cất chiếc đầu máy khâu dưới gầm giường. Trước khi cất, tao còn
kiểm tra hộp phụ. Lại phủ tấm vải sơn hoa tím cũ lên trên. Tấm vải bọn mày vẫn trải
bàn ăn năm ngoái.
một trong hai cô nằm trên giường tức giận, quát lên:
- Phủ vải sơn hay vải trắng thì kệ xác mày. Chúng tao biết đâu được.
Mặt cô ta từ tím đỏ chuyển sang xanh tái, hai tay đặt trên mép bàn bắt đầu run:
- Chúng mày đừng ức hiếp tao. Chỉ có chúng mày cùng ở trong phòng này, làm sao
mà chiếc đầu máy khâu biến mất. Chẳng lẽ nó mọc cánh bay qua cửa sổ?

Cả hai cô nằm trên giường đều tung chăn, ngồi nhỏm dậy:
- Vậy mày nghi chúng tao lấy, phải không?
Mắt họ lóe lên như lửa đạn. Cô ta hoảng sợ, lùi lại, lắp bắp:
- Không nghi, không... nhưng cái đầu máy của tao... rõ ràng tay tao cất trong phòng
này.
Nước mắt lăn xuống hai gò má. Cánh mũi rung rung. Cô ta đưa tay quệt nước mắt.
Những giọt lệ loang qua sống mũi tẹt. Tôi bỗng thấy mủi lòng. Tôi bảo hai cô bạn
đang ngồi chòm hỏm trên giường, mắt long như hổ dữ:
- Bình tĩnh, đừng có ấm lên. Phòng bên cạnh nghe thấy thì xấu hổ. Bây giờ tất cả
đứng dậy, mặc áo ấm vào giúp nó tìm kỹ xem sao? Căn phòng này có rộng lớn gì
đâu. Kể cả khu phụ nữa, chỉ nửa giờ là xong hết.

Hai cô bạn cũng nể tôi, họ mặc áo khoác, và chúng tôi bắt đầu lục từng gầm giường
lên. Hết trong phòng tới bếp. Mới chỉ 10 phút sau, một cô đã kêu như thét:
- Đây rồi.
Cô lôi chiếc đầu máy khâu trong ngăn cuối của chiếc tủ đựng bát đĩa ra. Ngăn ấy là
ngăn lớn nhất, thường để cất các gói mì. gói gạo, khoai tây, hành tỏi khô và đồ gia vị
chưa dùng tới. Chắc cô ta đã tự tay lôi chiếc máy khâu dưới gầm giường dúi vào đây,
dùng những túi gạo túi mì lấp lên trên, rồi cuối cùng lại quên mất. Bà hàng xóm nhà
tôi ở cái xóm thợ ngoại ô, một người đã ngoại 50, chuyên sống bằng nghề bán sách
báo cũ cũng có thói cất dấu như thế. Thỉnh thoảng, lại nghe ông chồng bà ta chửi
một trận vì tội tìm một gói chè mốc nhét giữa đám quần áo cũ, một cân đường dấu
dưới đáy thùng mì chảy đến ăn rỉ cả lớp vỏ thùng, hoặc một gói mứt sen để từ Tết
năm này qua Tết năm sau ở giữa những vỏ hộp bánh mốc. Thói quen ấy xuất phát từ
cuộc sống quá cơ cực, khiến con người nhiễm thói bần tiện và gian dối. Khởi đầu, có
thể nó có ý nghĩa như sự cơ chỉ. Sau rồi nó trở thành sự vụng trộm một cách vị kỷ và
làm họ hóa thành hèn mọn, nhục nhã.

- Cái gì đây?
Cô bạn tìm thấy chiếc đầu máy khâu đã hét to lên, cầm cả khối kim loại mặng mấy
chục cân sát vào mặt cô ta.
- Mở mắt ra mà nhìn. Có phải chính nó đây không?
Cô ta đứng sát cái bàn ăn, hai tay buông thõng xuống. Đôi cắp cụp mi, nhìn như
đóng đinh vào lớp ván gỗ lát sàn. Cái mũi tẹt lúc ấy trông càng thêm tẹt. Một người
phụ nữ có thể xấu, nhưng không nên hèn. Nếu đã xấu, lại cộng thêm tính hèn, thì vẻ
khó coi của dung mạo sẽ tăng lên theo cấp số nhân. Không hiểu vì đâu, mà một cô
gái 21 tuổi đã nhiễm thó quen tồi tệ ấy. Tôi bảo cô bạn:
- Thôi, thôi.
Cô ta gắt lại:
- Nhưng ức lắm, không chịu được. Mà tất cả ở lỗi mày. Ngay hồi đầu, chúng tao có

40
Những Thiên Đường Mù

muốn nhận nó về phòng đâu? Những đứa khác cũng không chịu ở chung với nó.
Chẳng ai muốn rước cái của nợ ấy. Chỉ có mày.
Tôi cầm tay cô bạn:
- Thôi đừng to tiếng nữa. Đằng nào chuyện cũng qua rồi mà.

Cô bạn tôi ném thịch cái đầu máy khâu xuống, ngồi xuống ghế thở hổn hển. Còn cô
ta, cô ta vẫn đứng bên mép bàn, móng tay cạo lớp sơn màu xanh nhạt đã loang lổ.
Những giọt nước mắt bẩn chạy trên hai gò má to và bẹt, rồi chúng lan xuống cái
chỏm mũi. Trán cô ta thấp, 1 đám tóc đen ăn lan xuống bên thái dương trái khiến nó
lệch lạc. Một mụn ruồi nhỏ nằm ngang chính giữa sơn căn. Ở với nhau gần hai năm,
đây là lần đầu tiên tôi ngắm gương mặt cô ta kỹ lưỡng.

Chúng tôi trở về phòng, bỏ mặc cô ta với chiếc máy khâu trong phòng ăn, giữa các
túi gạo, túi mì ngổn ngang. một cô bạn tôi lại chui vào chăn ngủ. Cô kia chải tóc,
chuẩn bị ra phố. Tôi ra đứng bên cửa sổ. Tuyết vẫn rơi bên ngoài. cơn giông tố của
một vẻ đẹp thuần khiết và huy hoàng vẫn trút xuống. Những làn sóng mỹ cảm ngây
ngất vẫn lan truyền trong không gian. Nhưng tôi trở nên đờ dại. Tôi quay vào, ngồi
trước bàn. một cuốn sách để ngỏ với mấy cái lô cuốn tóc. Những dòng chữ sắc nét,
in bằng thứ mực đen nhánh trên giấy trắng tinh. Tôi nhìn những dòng chữ, mà không
thấy gì cả. Lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu rằng, cho tới lúc nào đó, có những điều
thiêng liêng cao cả, tươi đẹp bỗng tan biến như làn khói. Các giá trị mà suốt cuộc đời
con người thờ phụng và theo đuổi tới một khoảnh khắc thức tỉnh, trở nên hèn mọn,
xoàng xĩnh. Khoảnh khắc ấy thật đáng sợ. Khoảnh khắc ấy thật khủng khiếp. Nhưng,
không tránh được...

41
Những Thiên Đường Mù

Chương 8

Hồi đưa tôi về quê, mẹ tôi đã đi chơi khắp xóm trên làng dưới. Gia đình người chủ
mua nhà cũng phải chạy chọt, thu xếp hết non tuần lễ mới đủ tiền. Nhận tiền xong,
mẹ tôi viết văn tự bán đoạn cho họ. Rồi, sớm hôm sau, chúng tôi trở về Hà Nội. Cô
Tâm đưa tôi ra tận bến đò. Có lẽ cô đã phải thức dậy từ nửa đêm, để đồ xôi, luộc gà,
rán chả lợn... Tất cả xếp chặt trong chiếc làn tre Lạng Sơn để đem cho tôi. Mẹ tôi
ngại ngần nói:
- Thôi, chị khỏi phải đưa cháu, đường xa lắm.
Cô đáp:
- Xa cũng chưa bằng nửa doạn đường tôi cắp nón đi làm công cho người ta hồi cải
cách.
Mẹ tôi nói thêm:
- Còn nhà cửa, công việc nữa.
Cô bảo:
- Tôi dậy từ canh ba, bà Đũa vẫn ngủ. Lúc đi, tôi mới đánh thức bà ấy cài cửa ngõ.
Cô cứ yên tâm.
Và ngừng lại một lát, cô nói thêm:
- Cháu tôi về, có việc tày đình cũng cứ gác lại.
Rồi cô nắm tay tôi, dắt đi.
Trời chưa sáng, những vòm lá ướt sương quệt ngang đầu tôi. Cô Tâm chẳng nói
chẳng rằng, đưa chiếc làn thức ăn cho mẹ tôi, rồi xốc tôi lên lưng cõng. Tôi van vỉ.
- Cô ơi, cháu đi được, cô cho cháu đi mà.
Cô nói, giọng như ra lệnh.
- Ngồi im, để cháu đi, nhỡ lá ngứa quệt phải má cháu lại sưng lên.

Tôi đành ngồi im. Cô cõng tôi ra khỏi đường thôn, mới đặt tôi đứng xuống. Thở phào
một hơi khoan khoái, tôi chạy vượt lên. Trong lòng, tôi vẫn thầm lo cô lại bắt tôi phải
cưỡi lên tấm lưng gầy của cô lần nữa, vì lí do nào đó mà cô tìm được tình yêu còn sót
lại trong tim cô, hoặc nói cho đúng hơn, tình yêu thương của cô như con chim hóa đá
trong những năm phục thù, giờ đã sống trở lại. Và cô dành cho tôi. Trong ánh mắt
nhìn, trong các cử chỉ thân yêu đường đột, trong lời nói. Nhưng tôi sợ. Có lẽ tôi còn
quá bé nhỏ để lãnh nhận một tình yêu như thế. Tôi lờ mờ cảm thấy tình yêu ấy quá
lơn, quá khốc liệt, và không bình thường. Tôi cũng yêu cô, nhưng tôi cố lảng tránh cô
trong những cơ hội có thể được.

- Hằng, ngã bây giờ.


Phía sau, cô cất tiếng gọi. Tôi dừng lại.
- Đi từ từ thôi, đường nhiều gồ sống trâu. Để cô dắt.
Cô nắm chặt tay tôi, như đứa bé khư khư giữ đồng xu mẹ cho lúc đến trường. Mẹ tôi
biết ý, đi vọt lên trước, cách chúng tôi vài chục bước chân. Cô Tâm nhìn theo, thấy
mẹ tôi đã xa, cô mới nói:
- Bây giờ, chỉ có con là giọt máu duy nhất của dòng họ Trần. Nhà cửa, từ đường,
vườn ruộng của cô cũng chỉ để cho con ngoài ra không còn ai khác. Con biết không?
- Thưa cô con biết ạ.
- Ông nội con xưa là hương sư lừng danh cả tổng phải kính nể. Bố con cũng là người
hiếu đễ, giỏi giang. Mới 12 tuổi, sách Tây đã đọc làu làu. Con phải cố học, đừng để
tủi vong hồn của ông nội và bố, nhớ chưa?
- Thưa cô, nhớ ạ.
- Con chưa hiểu được những oan khổ bố con đã chịu. Nhưng hãy ghi nhớ trong dạ.
Rồi lớn lên sẽ biết.

42
Những Thiên Đường Mù

- Vâng ạ.
- Mỗi tháng viết thư cho cô một lần, báo cho cô biết tình hình học hành, sức khỏe. Áo
quần, giấy bút, thuốc men bồi dưỡng, cô sẽ chu cấp đầy đủ cho con học hành thành
tài. Thời này, khối đứa con gái làm nên, con biết không?
- Thưa cô, có ạ.
- Ở làng Đông, con nhà bà Bút thi đậu bằng phó tiến sĩ bên Balan cơ đấy.
- Vâng ạ.
- Con thi vào đại học, cô mua cho con cái xe đạp Lơ-giô. Con được đi nước ngoài, cô
sẽ gom tiền lên Hà Nội mua cho con căn nhà gác. Nhớ chưa?
- Nhớ ạ.
Cô ngồi thụp xuống, móc trong túi một gói giấy nhỏ thì thầm:
- Đứng lại cô bảo đã.
Tôi đứng lại, chờ đợi. Cô mở gói giấy ra, Hết lượt giấy bọc ngoài, tới một mảnh lụa
đen, chắc cắt ra từ điềm vải thừa của một cái quần phụ nữ, sau cùng là nhúm bông
nõn. Ở giữa nhúm bông, là đôi hoa tai kiểu cũ, có hai mặt đá đánh tòng teng. Cô lấy
ra từng chiếc, mắc vào tai cho tôi. Dạo ấy, tôi đã xỏ lỗ tai. Và mẹ tôi đeo cho tôi hai
hạt nụ hoa bằng nhựa đỏ. Cô Tâm tháo đôi hoa nhựa ra, đeo đôi hoa tai vàng vào.
Rồi, cô lại rút thêm gói nhỏ thứ hai, trong túi áo cánh bên kia. Lần này là một cặp
nhẫn, chiếc nào cũng quấn len:
- Cô phải quấn len thế này mớ vừa ngón tay con. Nào chìa ra.
Tôi ngại ngần:
- Con không đeo đâu, con sợ lắm.
Cô Tâm quắc mắt:
- Chẳng sợ gì hết. Của cô cho con mà.
Tôi nói:
- Nhưng trên ấy, trẻ con đeo vàng dễ bị cướp giật, bị mẹ mìn bắt.
Cô bảo:
- Đeo từ đây về đến nhà, tới nhà mẹ con sẽ gỡ cất đi. Cô cho con làm vốn riêng. Sau
này, sẽ còn những thứ khác.

Đeo nhẫn xong cho tôi, cô lùi ra, ngắm nghía. Bấy giờ tôi hiểu vì sao cô nhất thiết
bắt tôi đeo hoa tai, đeo nhẫn, những thứ đồ trang sức không mấy người bắt đứa trẻ
mười tuổi phải mang theo. Ánh mắt cô nhìn tôi lúc ấy là ánh mắt của một họa sĩ với
bức tranh vừa vẽ. Các đồ vật quý giá này đã được cất trong bóng tối từ ngày mua
cho đến lúc tới tay tôi. Nhưng những đứa bé khác, hẳn tôi phải mừng lắm. Nhưng tôi
sợ. Tôi đưa tay sờ lên chiếc hoa, những riềm sắc bao quanh hạt đá, mặt đá hình lục
lăng lạnh lạnh. Rụt tay lại, tôi thọc tay vào túi. Món đồ trang sức khi truyền sang
cảm giác lạnh lẽo, băng giá. Chúng như cánh hoa tàn cuối mùa xuân, rải xuống nấm
mộ hoang cô lẻ, để gió cuốn đi.

Mẹ con tôi xuống thuyền, cô Tâm còn đứng trên bờ nhìn theo mãi. Khi thuyền sang
quá nửa dòng, cô mới quay về. Trong ánh lê minh, cái bóng nhỏ bé của cô in như
một chấm mực trên bức tranh thủy mạc. những vầng mây phía đông ửng lên màu
hoa đào tươi thắm trước khi chuyển sang vàng rực. Đàn nhặng nhào lộn trên không,
rồi bổ xuống xác một con mèo chết trôi ai ném lên bờ. Trong không khí thoảng qua
mùi thối rữa. Mặt trời lên, cùng với lúc thuyền cặp bến bên kia. Người lái thuyền gác
cây cầu gỗ cho khách, miệng quát:
- Từ từ, đừng có chen nhau. Mới bảnh mắt đã đi đâu mà vội thế?

Bên kia, đám khách chờ qua đò đã nhong nhóng đứng, đợi lượt xuống thuyền. Mẹ
con tôi mau mắn, vừa sang bờ đê bên kia đã gặp đuợc hai chiếc xe đạp thồ vắng
khách. hai người đàn ông mặc áo nâu, trạc tứ tuần có lẻ. Họ đang chống xe phì phèo
thuốc lá cuốn. Họ nhận lời chở mẹ con tôi ra bến xe thị trấn với giá rẻ không ngờ. Đỡ

43
Những Thiên Đường Mù

được đoạn đường đi bộ, chúng tôi ra kịp chuyến xe thứ hai. Từ đó, trở về Hà Nội chỉ
hơn ba tiếng. Khoảng non trưa, hai mẹ con tôi đã tới nhà:
- Này, ngày thường chả thấy ai, đi vắng hôm nào cũng có người tới hỏi.

Bà lão bán chè đỗ xanh nóng bảo mẹ tôi thế. Bà ngồi sau tấm mành trúc nói vọng
ra. Mẹ tôi cảm ơn, mở khóa vào nhà. một mình mẹ dọn nhà, còn tôi đi thăm bạn
trong xóm. Từ nhà thằng Khang sứt tới con Hà, con Quyên... Cả con chó Trắng xồm
nhà bà Miều. Nó đang nằm dưới chân anh què, ngủ mê mệt. Còn anh què vẫn ngồi
trên chiếc ghế vải bố như thường lệ, thỉnh thoảng lại ném quyển truyện, ngước nhìn
trời hát rống lên:
Mùa thu sang lá vàng rơi đầy...

Tôi chạy đến toát mồ hôi hột. Lúc trở về, mẹ đã dọn dẹp nhà cửa nấu cơm xong:
- Rửa mặt mùi cho sạch rồi ăn cơm. Hôm nay nhà có khách đấy.
Tôi ngạc nhiên:
- Ai bảo mẹ thế?
Mẹ tôi đáp:
- Tuần vừa rồi, cậu Chính đến đây tìm mẹ con mình. Chắc nhà cậu ấy có việc. Bên cô
Vị vừa nói.
Tôi buột miệng:
- Chắc cậu ấy đến tìm mẹ lấy tiền, chẳng có việc gì đâu.
Mẹ tôi im lặng thu xếp đống hàng họ, rồi lát sau, khẽ hỏi:
- Ai bảo con như vậy?
Tôi đáp:
- Cô Tâm.

Mẹ tôi không nói gì thêm, cất bồ hàng vào góc nhà rồi xới cơm. Cơm hôm ấy có canh
hoa thiên lý nấu thịt nạc, món ăn tôi thích nhất trên đời. Tôi ăn rõ no, những ba bát
cơm chan lại thêm miếng cháy. Ăn no quá, tôi ngủ ngay tức khắc. Và giấc ngủ kéo
dài tới nửa chiều. Lúc tôi thức dậy, đồng hồ treo tường thong thả gõ ba tiếng. Mỗi
tiếng kèm theo một sợi dây âm thanh run rẩy, ngân nga. Tôi nhắm mắt, lắng nghe
tiếng chuông quen thuộc. Bên ngoài, xuyên qua không gian xao động của phố xá,
vẫn nghe rõ tiếng gào của anh con trai què:
Màn sương trắng nép ngang mái nhà ven đồi
Mà không thấy bóng người tôi mong chờ...

Tôi bỗng nhớ một người tôi chưa bao giờ gặp mặt:
- Bố, bố ơi...
Tuổi thơ tôi hiển hiện lên, như trái bóng lăn qua dường. một trái bóng không địa chỉ.
Những con đường lấm bụi nơi ngoại ô. Gió bấc rít ngang trời, với làn mây xám không
di động. Bầu trời vẩn đục vì khói nhà máy và cát bụi cuốn theo những đoàn xe tải.
Chúng chạy rầm rầm suốt đêm ngày. Con Trắng xồm lại tru lên. Nó đã già quá rồi,
lông đuôi bết từng đám bẩm thỉu, xơ xác. Nó bước đi lử thử, mắt kéo màng. Nó
không còn nhận ra tôi. Mỗi lần tôi cất tiếng gọi, nó đưa mũi hít hít rồi gục gặc cái đầu
đã trụi hết nửa lông. Có lẽ nó vẫn còn ngửi thấy lờ mờ cái mùi của quá khứ. Nhưng
nó không đủ tình thương mến để xẻ chia. Nó, người bạn thời thơ ấu, vị hiệp sĩ của tôi
bao năm dài.
- Ú ú ú...
Tiếng tru của con chó bay qua ngõ. Tôi như thấy cái mũi lạnh và ướt của nó chạm
vào tôi. một mùa hè nồng ấm đã tắt đi quá sớm.
- Bố ơi.
Tiếng gọi vang trong ba gian nhà, rồi lắng đi, như thứ bụi vô hình. Nước mắt tôi ứa
qua hàng mi. Tôi bước khỏi căn nhà trống, không buồn khóa cửa. Mẹ đi chơi quanh

44
Những Thiên Đường Mù

quất đâu đó, chắn chắn sẽ quay về. tôi quấn chiếc khăn len kẻ ô vào cổ, ra đường.
Các nhà hàng xóm đều đóng kín. Tôi đến nhà ông lão mù xem bói. Nhà vắng khách,
mảnh sân đầy lá đào, lá mai rụng. những chiếc lá khô bị gió đuổi trên sân, dồn từ
góc này sang góc kia, xạc xào. Ông lão đang ngồi thu lu trên giường, hai tay bó gối:
- Ai đấy?
Tôi đáp lời.
- Cháu ạ...
Ông gọi.
- Con bé Hằng nhà mẹ Quế phải không? Vào đây chơi với ông.
Nhưng tôi chán ngắt. Tôi chẳng muốn chơi với ai. Tôi trả lời:
- Ông ơi, cháu phải đi ra chợ một tí.
Nói rồi, tôi chạy đi. Những chiếc lá đào khô đuổi theo tôi. Tôi chạy một mạch, chẳng
biết tới đâu. Sau cùng, tôi thấy mình ngồi trước miệng cống thoát nước. Dòng nước
cống chảy tong tỏng xuống hầm chứa, qua hàng răng chắn rác đã mòn trũng. Rác
dồn tụ ở đó, từ chiếc bàn chải đánh răng tới mảng lược gãy, từ vỏ trứng vịt lộn, vỏ cà
chua, hột gấc, bã mía tới lông gà lông vịt, nhãn dán rượu, đồng tiền lẻ rách... Cả
những đám vỏ hạt bí, hạt dưa từ đám cưới nào đó hắt xuống. Cả những mảnh vải
thêu kim tuyến, chắc xé ra từ tấm áo biểu diễn cũ của diễn viên, phân tươi trẻ con
nổi lều bều cạnh những ống thủy tinh rỗng, vật thải của một trạm y tế. Tôi kiếm
chiếc que dài, lẩn mẩn bới từng thứ kên, cố cắt nghĩa xem chúng từ đâu tới. một bàn
tay cứng nhắc bóp vai tôi:
- Hằng.
Tôi ngẩng lên. Té ra đó là cậu Chính, đôi mày cậu nhíu lại trên sống mũi:
- Mày nghịch bẩn thế hả? Về nhà ngay!
Cậu túm vai tôi, kéo lên. Chân cậu vẫn gác khung xe đạp. Tôi nhìn cậu, thấy cậu rất
giống mẹ tôi. Trong khi đó, cậu đã kịp đặt tôi ngồi lên tấm lưới sắt đèo hàng, và cậu
chở tôi về nhà. Mẹ tôi đang ngồi sao chè. Chắc hẳn rôi vừa đi chơi, mẹ đã trở về.
Trong chiếc thúng đặt cạnh bếp, có tới hai cân chè vừa sao còn nóng hổi. Thấy cậu
Chính, mẹ bỏ đôi đũa, bắc chảo chè đổ ra nong:
- Cậu vào nhà đi.
Cậu tôi đặt chiếc xe ngay trước cửa, khóa lại cẩn thận, mới vào nhà. Chưa kịp ngồi
xuống ghế, cậu đã nói:
- Mấy hôm vừa rồi em tới tìm chị luôn.
Mẹ tôi đáp:
- Vâng tôi cũng nghe hàng xóm nói lại. Hằng, lấy cho mẹ gói chè sen. Bên trên chiếc
xích đông ấy.
- Khỏi cần chè cháo, em vừa uống nước bên cơ quan. Chị lấy được tiền cho em chưa?
- Cậu hã thong thả uống nước cho ấm bụng. Tôi đã lấy đủ tiền cho cậu, rồi làm văn
tự bán đoạn cho người ta.
Mẹ tôi rót nước chè vào chén, đặt trước mặt cậu. Xong xuôi, mẹ vào buồng lấy ra
một bọc tiền:
- Phần cậu đấy.

Cậu tôi cầm gói tiền, lật qua lật lại. Mẹ tôi biết ý, bảo:
- Không cần phải kiểm tra lại đâu. Tôi vừa nhận tiền hôm qua, đếm đủ. Người trong
họ, không ai dám làm ăn điêu bạc.
Cậu tôi im lặng uống nước rồi bảo:
- Em xin cho chị làm tạp vụ ở nhà máy văn phòng phẩm Hồng Hà. Sáng mai tới nhận
việc cho sớm sủa.
Mẹ tôi nhẩn ngơ nhìn cậu, khi hiểu ra, mẹ dãy nảy lên:
- Thôi chết, sao cậu làm ăn đường đột thế? Cậu để cho chị ngẫm nghĩ đã.
Cậu tôi cau mày, gắt:
- Còn ngẫm nghĩ cái gì? Đã bảo chị rồi, đường quang không muốn đi, lại đâm quàng

45
Những Thiên Đường Mù

vào bụi rậm.


Mẹ tôi van vỉ:
- Muốn sống phải nghĩ chứ cậu? Ngần này tuổi tôi còn làm loong toong cho người ta
sai vặt, biết bao giờ mới thành nghề thành nghiệp? Mà trước mắt, lương bổng như
thế, tôi làm sao nuôi nổi cháu Hằng?
Cậu tôi nói:
- Chị nghe đây này. Cái nghề buôn gánh bán bưng của chị, dù bây giờ kiếm đủ ngày
hai bữa cơm, nhưng mai sau sẽ bị tiêu diệt. Còn đứng vào đội ngũ giap cấp, dù làm
tạp vụ chăng nữa, cũng sẽ nắm tương lai trong tay. Chị muốn đường nào?

Mẹ tôi bối rối cúi mặt xuống, nhưng lát sau, mẹ vẫn lắc đầu nài nỉ:
- Chị chịu thôi, cậu cho chị nghĩ đã. Không thể quyết định việc tày trời một chốc một
lát được.
Cậu tôi đứng lên, thở một cách bực dọc, rồi bảo:
- Thôi được, tùy chị đấy. Sau này khốn khổ đừng có trách em. Em đã làm hết phận
sự của mình.
Mẹ tôi cũng đứng lên, run rẩy:
- Chị cảm ơn cậu. Cậu đừng giận. Nhưng sự thể là...
Cậu tôi nói:
- Chị không nhìn được qua chóp mũi của mình. Chị không dám nhìn thẳng tới tương
lai. Nếu cháu Hằng có bị thua kém con nhà người ta, ấy là lỗi tại chị.
Mẹ tôi đứng im, vẻ mặt lo âu, khổn khổ đến nỗi tôi phải phải chạy tới:
- Mẹ ơi i i...
Tôi gọi mẹ, đoạn quay sang nói với cậu Chính:
- Cậu đừng dằn vặt mẹ cháu.
Cậu trợn mắt lên:
- Tất cả những điều tao lo lắng là vì tương lai của máy, cuộc sống của mày nghe
chưa.
Cậu bỏ gói tiền vào chiếc cặp da, treo lên ghi đông xe đạp. Rồi cậu mở khóa xe, ra
về. mẹ tôi cung cúc ra theo, định chào cậu nhưng không dám lên tiếng. Khi cậu đã
đạp xe khuất hẳn nơi lối rẽ, mẹ mới quay vào. Mẹ ngồi xuống bàn, đầu rũ xuống. Tôi
hỏi:
- Mẹ ơi, làm sao thế?
Mẹ ngẩng lên, nước mắt lưng tròng:
- Mẹ chỉ còn một cậu Chính là người thân. Vậy mà tan nát hết...
Tôi nói:
- Có phải lỗi tại mẹ đâu?
Mẹ tôi ngẩng đầu lên:
- Lẽ ra, khi ông bà chết, mẹ phải tẩn tào nuôi cho cậu con ăn học. Nhưng mẹ không
giỏi giang được bằng thiên hạ, mẹ đã không làm nổi điều ấy.

Buổi tối, nhà buồn như có tang. Mẹ tôi nằm trên giường, mặt quay vào tường. Không
nghe tiếng mẹ khóc, cũng không nghe tiếng mẹ nói. Làm sao người ta có thể lặng im
lâu như thế? Tôi sắp xếp bài vở, rồi bỏ sang nhà thằng Khang sứt chơi cờ ca rô. Vài
tuần sau, tôi nghe mẹ nói với cô Vị hàng xóm:
- Cậu ấy không muốn nhìn mặt tôi nữa. Tôi không đứng trong đội ngũ của giai cấp
công nhân, cũng không là nông dân lao động hợp tác. Tôi làm ảnh hưởng tới cậu ấy.
Cô Vị hỏi:
- Ảnh hưởng gì?
Mẹ tôi đáp:
- Tiến bộ. Cậu ấy bảo tôi rằng, nếu tôi cũng là một cán bộ cách mạng có 10, 15 năm
tuổi Đảng như bà chị ruột của cậu bạn cùng phòng thì cậu ấy đã lên cấp năm ngoái.
Cậu kia năng lực kém, nhưng nhờ có bà chị bên Hội Phụ nữ trung ương hoạt động

46
Những Thiên Đường Mù

cách mạng năm 45 nên được đề bạt phó phòng.

Nói xong, mẹ thở não nề. Cô Vị im lặng ngẫm nghĩ một hồi rồi nói toáng lên:
- Làm sao chị phải rầu rĩ? Ai chọn cửa mà sinh cơ chứ? Nếu chọn được cửa, thì cả chị
lẫn tôi chẳng dại gì không làm con ông Hoàng bà Chúa. Có ai muốn sống kiếp dân
đầu chợ mom sông, sớm sương muối rát mặt đã lo gánh hàng ra chợ, tối phố lên đèn
còn đi vét hàng.

Mẹ tôi nói khẽ:


- Giá không có cháu Hằng, tôi cũng liều nghe lời cậu ấy đi làm loong toong trong nhà
máy. Thật nghề ngỗng chẳng ra sao nhưng cũng được 2 chữ công nhân. một thân
một mình ném xuống ao tôi vẫn sống, nhưng khốn nỗi, còn có con Hằng.
Cô Vị bảo:
- Anh trai tôi làm thợ điện trong nhà máy Yên Phụ, chị gái tôi làm thợ dệt dưới Minh
Khai, chẳng ai bỏ tôi chỉ vì tôi không đứng cùng một đội ngũ. Tôi ăn ở lương thiện,
không trộm cắp, không lừa gạt, không ám hại ai.
Mẹ tôi đáp:
- Vâng... Vẫn biết thế, nhưng mỗi nhà mỗi khác. Cậu Chính khó tính từ nhỏ. Dòng họ
Đỗ nhà tôi có cậu ấy là con trai. Xưa nay, nó muốn thế nào, mọi người phải làm theo
thế.

Cô Vị ối giời lên một tiếng rồi bảo:


- Thế thì ông em chị là ông vua con, cách mạng cái khỉ gió. Nhà tôi dân nghèo, Cô lôi
chiếc đầu máy khâu trong ngăn cuối của chiếc tủ đựng bát đĩa ra. Ngăn ấy là ngăn
lớn nhất, thường để cất các gói mì. gói gạo, khoai tây, hành tỏi khô và đồ gia vị chưa
dùng tới. Chắc cô ta đã tự tay lôi chiếc máy khâu dưới gầm giường dúi vào đây, dùng
những túi gạo túi mì lấp lên trên, rồi cuối cùng lại quên mất. Bà hàng xóm nhà tôi ở
cái xóm thợ ngoại ô, một người đã ngoại 50, chuyên sống bằng nghề bán sách báo
cũ cũng có thói cất dấu như thế. Thỉnh thoảng, lại nghe ông chồng bà ta chửi 1 trận
vì tội tìm 1 gói chè mốc nhét giữa đám quần áo cũ, 1 cân đường dấu dưới đáy thùng
mì chảy đến ăn rỉ cả lớp vỏ thùng, hoặc 1 gói mứt sen để từ Tết năm này qua Tết
năm sau ở giữa những vỏ hộp bánh mốc. Thói quen ấy xuất phát từ cuộc sống quá
cơ cực, khiến con người nhiễm thói bần tiện và gian dối. Khởi đầu, có thể nó có ý
nghĩa như sự cơ chỉ. Sau rồi nó trở thành sự vụng trộm 1 cách vị kỷ và làm họ hóa
thành hèn mọn, nhục nhã. anh em chẳng ai làm vua được với ai. Hễ người nào gặp
bão, đổ nhà trốc mái thì bốn người kia góp tiền góp sức. Con ai lấy vợ lấy chồng, cả
họ xúm vào sắm lễ, sắm áo quần. Tôi bánh pháo thì anh chịu buồng cau. Ngày giỗ
bố giỗ mẹ cũng phân cắt ra, năm nay anh cả, sang năm chị hai, cứ thế mà làm. Việc
nhà chúng tôi nhẹ tênh tênh, còn như chị ấy à, nói xin lỗi, tôi cạch mặt. Anh em máu
chảy ruột mềm thật, nhưng phải có lí có tình.
Mẹ tôi nói:
- Nhưng tôi ít học. Cậu ấy là cán bộ nhà nước, nhìn xa trông rộng.
Cô Vị đáp:
- Tôi cũng ít chữ. Tôi sống như ngày xưa bố mẹ tôi vẫn sống. Có thực mới vực được
đạo. Chẳng ai nhịn đói được qua năm Dậu để chờ tới năm Tuất ăn cỗ Tiên.
Tới đó, cô bỗng bật kêu:
- Thôi chết tôi rồi. Nồi chè kho cháy. Thể nào mà cứ thơm lừng cả lên.
Cô chạy bổ ra sân. Quả nhiên, tôi thấy mùi thơm của đỗ xanh bén lửa. Cô Vị về
chừng 10 phút, lại quay sang, trên tay có đĩa chè:
- Chị ăn chè với cháu đi. Chè tôi kho kĩ lắm. Trong như bánh dừa mà còn om trên
than.

Trời rét, tuy còn bốc khói nhưng đĩa chè cũng đã đặc quánh, như bánh đậu xanh đổ

47
Những Thiên Đường Mù

ra. Bên trên, vừng lột vỏ rang vàng rắc kín. Mẹ tôi trầm trồ khen:
- Cô nấu khéo quá. Tết này cô cho tôi chung nồi chè kho nhá?
- Có nồi chè, làm gì phải chung? Tôi cho hẳn mẹ con chị 10 đĩa. Vừa ăn, vừa tiếp
khách ba ngày Tết thỏa thê.
Nói xong, cô lại con cón chạy về. Từ hôm ấy cho tới dịp Tết Nguyên Đán, cậu Chính
không lại chơi nữa. 28 Tết, cô Vị mới nghỉ bán hàng, cả đêm, cô xoay xỏa đãi gạo,
đãi đỗ, pha thịt, róc lá gói bánh chưng. Gói bánh xong vừa rạng sáng, đã thấy cô nấu
chè kho, nồi chè to tướng, hết ba cân đỗ. Cô múc cho mẹ con tôi 10 chiếc đĩa Bát
Tràng:
- Ăn xong phải trả đĩa đấy nhớ. Hết đĩa nào mang trả ngay đĩa ấy, ba ngày Tết, tôi
lười rửa.
2 má cô đỏ hây hây, mặc dù những nếp rạn chân chim đã hằn dưới đuôi mắt. Mẹ con
tôi bưng chè về nhà, thấy một người đàn bà đứng trước bàn thờ, lưng quay về phía
cửa. một tấm lưng thon gầy, hơi dẹt, dưới lần áo cánh màu nâu non.
Mẹ tôi bảo:
- Cô Tâm.
Rồi mẹ bước dấn lên, đánh tiếng:
- Chị vừa lên?
Cô Tâm quay lại. Đỡ mấy đĩa chè trên tay mẹ tôi, hỏi:
- Bưng chè ở đâu về thế này? Cô mua hả?
Mẹ tôi đáp:
- Hàng xóm cho. Em lười nấu quá.
Thấy tôi cũng lễ mễ bưng chè vào, cô lắc đầu:
- Mẹ con mày dắt nhau đi ăn xin thiên hạ? Ngày Tết, không chịu khó nấu mà cúng lễ
cho thoải mái.
Cô có vẻ không bằng lòng. Cô ôm tôi, xoa đầu, hít ngửi mái tóc tôi. May mà chiều
hôm trước mẹ tôi vừa đun nước hương nhu cho tôi gội đầu. Cô Tâm hài lòng lắm:
- Cái răng cái tóc là gốc con người. Phải đun nước lá thơm mà gội cho mượt tóc.

Cô dặn, chẳng hiểu dặn mẹ tôi hay dặn tôi. Rồi cô lôi 2 chiếc làn tre đặt dưới chân
bàn tới gần, lần lượt mở từng làn ra. Làn nào cũng đầy ắp thức ăn. Giò lụa vài cân,
chả quế vài cân, giò hoa vài cân. Thứ nào cô cũng đặt trước. Thứ nào cũng còn mướt
lá, chứng tỏ vừa được vớt chiều hôm qua. Rồi chè lam tỉnh Thanh, ngũ vị tỉnh Bắc,
bánh cáy Thái Bình, chè ướp nhài ướp ngâu. Rồi mứt sen, bánh quy bơ, quy xốp. Rồi
bánh gai, bánh tro nhuộm gấc, bánh tro rơm vàng. Giá một người đàn ông lực điền,
cũng không thể mang nặng hơn thế. Mẹ tôi đứng sững sờ, rồi bối rối:
- Em không thể nhận được. Em cũng có, chị đừng cho quá nhiều thế này. Mẹ con em
làm sao ăn hết?
Cô Tâm, trả lời giọng lạnh tanh:
- Tôi có cho cô đâu! Đây là phần tôi cúng em tôi và cho cháu Hằng. Ăn không hết thì
đem biếu thầy giáo, cho bạn bè, quyền ở nó.

Đến lượt tôi đứng sững. Tôi không biết nói sao. Những quyền uy quà lớn ban cho một
đứa trẻ khiến nó sợ hãi. Cô tôi ôm tôi vào lòng:
- Cô lo cho Tết từ rằm cơ đấy. Cô nghe tin con được thưởng học kỳ vừa rồi, phải
không?
- Thưa cô, vâng.
- Tại sao không viết thư báo cho cô biết?
- Thưa cô... con bận quá. Tháng vừa rồi trường bắt làm kế hoạch nhỏ.
- Kế hoạch nhỏ với chả kế hoạch lớn. Cha tiên nhân nó, chỉ hành con cái nhà người
ta. Dưới làng, con nhà Bùng đi kiếm dây thép gai về bán lấy tiền nộp, đạp trúng uốn
ván chết. Từ rày, chớ có dại mà đi kiếm mảnh chai với giấy vụn, lỡ sứt tay, nhiễm
uốn ván thì nguy. Dòng họ Trần chỉ trông cậy vào con thôi đấy.

48
Những Thiên Đường Mù

Nói đoạn, cô mở chiếc ghim băng gài túi áo trong. Bên trong chiếc áo cánh bằng len
màu nâu non. Cô mặc chiếc áo vải trắng, có bôđêâ gấu và cổ tay:
- Tiền đây. Họ muốn bao nhiêu con cũng nộp. Chớ có dại dột mà theo lũ bạn đi ra bãi
rác nhặt nhạnh đồ thừa.
Cô đưa cho tôi một cuộn tiền mới. Toàn giấy bạc lớn, thứ bạc không bao giờ trẻ con
được phép tiêu. Tôi rùng mình, đấy là đồng tiền của một người đàn bà không bao giờ
có tuổi xuân. Người đàn bà đã ăn khoai sọ trừ cơm suốt vụ lúa, đêm ngủ ngoài trời
với con dao mài sắc gối dưới đầu, kiếm từng xu một để thách đố đời sống.
- Cầm lấy.
Cô ấn cuộn giấy bạc vào tay tôi. Tôi ôm cổ cô, run run:
- Con còn nhỏ, con không muốn tiiêu tiền. Cô cất đi.
Cô tôi quát:
- Không. Cô bảo con cầm, con phải cầm lấy, không được cãi. Mạng con quý nghìn
vàng, tiền bạc kể vào đâu?
- Còn cô đây, còn 2 bàn tay này.
Cô chìa đôi tay khô xác của cô ra trước mặt tôi, giọng rắn như chém đá:
- Còn đôi tay này, còn tiền còn bạc. Đừng lo. Cô biết cách tính. Chỉ một vụ cà chua,
cô thu hoạch gấp ba lần vụ lúa tốt nhà khác. Chỉ một vụ hồng xiêm, một vụ cam, cô
đủ xắm cho con dây chuyền vàng. Con biết không, cô đặt người ta làm sẵn rồi, mặt
hình trái tim nặng chỉ rưỡi, dây cũng chỉ rưỡi, cô cất ở nhà. Bao giờ 16 tuổi, con sẽ
đeo.

Nói xong những lời ấy, mắt cô sáng lên. Dường như trong cái viễn cảnh huy hoàng cô
vẽ ra cho tôi, cô đã đứng vượt lên mọi đau khổ và thua thiệt, cô đã thấy được hình
ảnh của chính cô trên đài chiến thắng. Tôi không nói được nữa, tôi quay đi. Cổ nghẹn
lại, tôi bước ra cửa. Trong khi đó, cô tôi nhét cuộn giấy bạc vào tủ. Rồi cô gọi mẹ tôi
ở dưới bếp lên, xăng xái lau bàn thờ, giũ tấm lụa đỏ phủ trên tấm ảnh của ông bà
ngoại. Cô đem sẵn theo tấm ảnh của bố tôi lồng trong khung kính. Tấm ảnh ấy cắt
ra từ một tấm ảnh chụp đại gia đình trước ngày bố tôi lên tỉnh học.
Hình người trong khung kính là một niên thiếu dịu dàng, với những nét gần giống
như cô Tâm, nhưng mờ ảo, vì hình phóng lớn, nên thấy rõ những vết rạn ngoằn
ngoèo. Cô tôi đặt tấm ảnh của đứa em trai lên bàn thờ, bảo mẹ tôi lấy một chiếc bát
mẫu chưa dùng làm bát cắm nhang. Cô xếp các thứ bánh trái, chè thuốc, các cây giò
lớn nhỏ. Cô sai mẹ tôi ra chợ:
- Mua thêm bó hoa đơn trắng và hoa chân chim tím. Hồi còn ở nhà, chú Tốn thích
nhất 2 màu hoa ấy.

Sau khi bày biện bàn thờ hoàn tất, cô tôi lùi ra ngắm nghía, vẻ mãn nguyện. Từ hồi
lớn lên, tôi chưa từng thấy bàn thờ nhà ai sang trọng như bàn thờ của bố tôi năm ấy.
Đèn nến sáng choang, trông lóa mắt. Tiếng pháo đì đùng vọng đến. Trong không
gian, lan truyền những làn sóng vô hình, như ảo giác, đan xen những giấc mơ đã héo
tàn và những giấc mơ chưa tới. Đám người đi qua cửa nhà tôi, đều vác cành đào
hoặc chậu quất, hí hửng một cách tức cười. Tôi đứng tựa cửa, quay quay sợi pháo
sáng trong tay. Cuộn tiền cô tôi cho có thể mua cả một nhà pháo. Nhưng tôi không
còn háo hức. Ném sợi dây pháo xuống rãnh, tôi bỏ chạy ra phố. Chạy mãi, tôi tìm
được một quán cắt tóc vô chủ. Ông thợ cắt tóc đã bỏ về quê ăn Tết. Ông ta là loại
người không có hộ khẩu thường trú ở thành phố này. Cái ghế gỗ xấu xí, sứt sẹo nằm
giữa căn lều. Trên nền gạch, rải rác những món tóc rơi. Phía trước, cánh cửa bằng gỗ
thùng ghép nửa mở nửa đóng ơ hờ. Tôi chui vào quán, ngồi lên ghế. Qua khuôn cửa,
tôi ngắm người qua đường. Tôi không muốn ở nhà lúc đó. Tôi không muốn cô tôi và
mẹ tôi tưng bừng chuẩn bị cho cuộc lễ tất niên: Nến đỏ và nến trắng, nhang que và

49
Những Thiên Đường Mù

nhang vòng, hoa và hoa, những thứ của ngon vật lạ, những lời khấn tụng rì rầm. Tất
cả tạo dựng nên một thiên đường muộn mằn, phung phí...

50
Những Thiên Đường Mù

Chương 9

Mùa xuân qua rất nhanh. Rồi mùa hè. Cậu Chính tôi không đến nữa. Mẹ tôi không
còn buồn khổ như hồi đầu tiên, khi bị cậu hất hủi. Tôi học khá, mỗi tháng một lần tôi
viết thư cho cô Tâm báo cáo việc học hành. Từ nay, tôi là con người khác, tôi có
guồng máy khác thống trị. Đó là vinh quang của dòng họ Trần, của ông tôi, của bố
tôi. Và tất cả được giao lãnh cho cô Tâm. Thư tôi gửi cho cô chỉ vài dòng. Thư cô trả
lời đặc bốn trang giấy. Phần đối thoại với cuộc đời bị ngắt quãng cô dồn cả về cho
tôi. Cô kể cho tôi nghe đủ thứ chuyện: Nào là đêm rằm tháng trước cô tới chùa Pheo,
nghe sư ông tụng kinh cả đêm, về nhà nhẹ lâng lâng như được uống thuốc cải lão
hoàn đồng. Nào là trong vườn cam, còn sót lại một gốc ổi, sát bờ dậu. Vừa rồi gốc ổi
ấy bỗng bị mối đùn to như đống rơm, khiến người làng xôn xao bàn tán. Cô đã đi
xem bói và ông thày mù bảo đó là điềm báo trước họ Trần sắp phát quí, phát phú.
Ngôi sao ứng nghiệm lại là Thái âm nên người thành đạt là phụ nữ. Nào mùa cam
năm nay, cô bán được 6000 quả, còn lại dăm trăm quả cô vùi cát nhờ người chuyển
dần lên Hà Nội cho tôi ăn... Thư nào cũng có lời dặn dò, khích lệ.

Mùa thu năm ấy mẹ tôi chữa lại bức tường phía sau bếp. Tôi bảo mẹ tôi bán đôi hoa
tai cô Tâm cho tôi để lợp lại mái nhà, ném tấm tôn và lớp giấy dầu đi. Mẹ tôi không
chịu:
- Vốn cô Tâm cho riêng con, không đụng tới được.
Tôi nói:
- Nhưng con muốn thế.
Mẹ bảo:
- Của cô, con không thể tùy tiện dùng.
Tôi cãi:
- Nhưng cô đã cho con.
Mẹ lại bảo:
- Cho là một chuyện. Cho con để con đeo. Bán đi là chuyện khác.
Tôi cáu:
- Nhưng con còn nhỏ, con không muốn đeo vàng trong khi ở mái nhà dột nát thế
này.
Mẹ tôi thở dài, hồi lâu mẹ hạ giọng:
- Bây giờ bố con mất, mẹ nuôi con, không lo sửa được mái nhà mẹ xấu hổ với cô
Tâm, với bà con họ mạc. Thôi, mẹ xin con. Hãy chờ mẹ ít lâu.
Từ ngày cô Tâm xuất hiện, mẹ không còn gọi tôi là em, cũng không nựng nịu tôi
nhiều như cũ. Mẹ xa hơn, e ngại, và dè chừng. Chúng tôi vẫn sống dưới mái nhà cũ.
Mái nhà mà xưa kia, dưới bòng mát của nó, bố mẹ tôi đã thương yêu nhau và sinh nở
ra tôi. một cuộc ái ân không ở trong cũng không ở ngoài pháp luât. Và tôi, đứa bé
không được thừa nhận, đã lớn lên như loài cỏ không tên vẫn mọc đầy các chân
tường. Mẹ không chịu bán đôi hoa tai của tôi lấy tiền chữa mái nhà. Những ngày
nắng, mùi nhựa chảy trên các tấm giấy dầu bốc lên hôi khét, như mùi hỏa ngục.
Ngày mưa, nhất là những ngày mưa thu, tiếng mưa gõ trên mái tôn buồn kinh
hoàng. Một mái nhà chia đôi: nửa xám, nửa đen giống hai mảnh vá cùng gá trên một
vạt áo cũ. Hình ảnh ấy không bao giờ rời tâm trí tôi.

Cuối đông, giữa phố bỗng mọc lên một quán bia nhỏ. Những tay anh chị vô nghề
nghiệp tụ lại ở đó, ngươi chạy bia từ các cửa hàng quốc doanh đem về, người bưng
mẹt đồ nhắm, thông thường là lạc rang, lạc luộc, vó bò, nộm đu đủ tới bán. Sau này
quán bia phình ra mãi, thu nạp thêm những khách nhậu lắm tiền. Chủ yếu là cánh lái
xe ngoại tỉnh và đám dân buôn xe đạp, xe máy. Người bán đồ nhắm tăng lên và cấp

51
Những Thiên Đường Mù

độ thức nhắm cũng tăng lên theo. Ngoài những mẹt hàng nôm và lạc, còn có các
gánh thịt chó, các lò than quạt lạp sường, mực nướng, khô cá thiều nướng và thịt bò
khô dầm tương ớt. Mùi thơm ngạt ngào bay khắp phố. Lũ bợm nhậu lúc say sưa, bất
cứ góc tường nào cũng loạng quạng xô tới rót nước tiểu. Những dòng nước tiểu khô
thành vệt dưới chân tường. Mùi khai lưu cữu vào những ngày trở trời xông lên nhức
óc. Ngõ phố trở nên đông đúc, nhộn nhạo. Chợ gần kế đó cũng sầm uất lây. Mẹ tôi
và các bạn hàng khấm khá lên trông thấy. Mẹ thu góp nhặt tiền, tính toán. Mẹ mua
sẵn hai tạ sắt và vài nghìn gạch máy dự định Tết xong sẽ nâng cao thêm tường và
đổ mái bằng. Chỉ còn lo ximăng và công thợ.
- Cứ chờ cho mẹ qua Tết.
Mẹ bảo tôi, hớn hở. Dáng điệu tự tin hẳn lên. Có lẽ, trước sức mạnh kinh tế của cô
Tâm, mẹ mặc cảm. Mẹ nghĩ rằng sự lo toan về phương diện vật chất của người chị
chồng sẽ làm cho giá trị của mẹ giảm đi. Đôi khi, những suy nghĩ của người lớn thật
phiến diện và nông cạn. Tôi nói với mẹ:
- Mẹ không cần lo nhiều quá.
Mẹ đáp:
- Qua Tết, mẹ con mình sẽ có mái nhà mới. Khỏi lo dột, lo nóng. Không cần đến hoa
tai của cô Tâm.
Mắt mẹ sáng lên đắc thắng. Nhưng mẹ không gặp may. một chiều, đi học về tôi thấy
mẹ đang xếp hàng vào góc nhà. Tôi hỏi:
- Sao mẹ về sớm thế?
Mẹ bảo:
- Có việc. Con rửa mặt mũi, thay áo quần rồi đi với mẹ thăm cậu Chính. Cậu ốm
nặng, khó bề qua khỏi. Mau lên.
Nói xong, mẹ chạy vào buồng thay quần áo. Tôi chưa thấy mẹ vội vã như thế bao
giờ. Tôi cất cặp, thay áo quần ngay. Hai mẹ con tôi ra đầu phố, gọi xích lô. Từ đó tới
bệnh viện hết nửa giờ. Đang lúc tan tầm, đường đông nghẹt xe pháo. Ởû bệnh viện
cũng tấp nập người ra vào, người mang cơm, người tới thăm nom, người ôm từng
chồng quần áo đi giặt. Gác cổng bệnh viện là một ông lão ngoại ngũ tuần, béo phì,
mặt như người mắc chứng thần kinh hoang tưởng. Giá cứ đi thì lại xong. Mẹ tôi thận
trọng đến trước cửa phòng trực, xưng danh, sau đó mới xin phép vào thăm người
ốm.
Ông gác cổng nhìn chúng tôi bằng một con mắt, con mắt kia ông ngó xuống địa ngục
hoặc nhìn lên thiên đường. Ông hỏi những câu ngô nghê nhưng đầy vẻ quan trọng.
Rút cục ông phát một cái lệnh rất quí tộc:
- Chờ đã, tôi giải quyết sau.
Một mệnh lệnh có thể gặp nhan nhản trong suốt thời buổi này. Tôi kéo áo mẹ, lùi ra
cổng. Chừng hai phút sau. ông ta đã cúi xuống đọc báo. Tôi bảo mẹ:
- Đừng hỏi, cứ đi thẳng mẹ nhé.
Mẹ ngần ngừ:
- Thôi, nhỡ người ta biết.
Tôi gắt:
- Mẹ hay nhỉ, mình có ăn trộm cắp gì mà lo.
Tôi kéo tay mẹ đi. Chúng tôi đã vượt qua cổng chính vào sân viện một cách bình yên.
Từ đó, chúng tôi phải lần mò qua bốn tòa nhà cao tầng, hỏi hết người này qua người
khác mới tới được căn phòng cậu nằm điều trị. Ông già nằm cùng phòng với cậu bảo:
- Anh ấy vừa xuất viện chiều hôm qua. hai mẹ con chị đến muộn rồi.
Mẹ tôi đứng bần thần, mãi mới cất được tiếng hỏi:
- Thưa bác, có đúng người bệnh là Đỗ Quốc Chính không?
Ông già đáp:
- Phải, ngày nào y tá chẳng gọi tên từng người đi tiêm.
Mẹ tôi nói:
- Nhưng cháu nghe bảo cậu ấy bệnh nặng, khó bề qua khỏi.

52
Những Thiên Đường Mù

Ông già cười:


- Ngất đi như thế người ta dễ sợ về chầu Diêm Vương. Nhưng anh Chính chỉ ngất vì
hạ đường huyết. Cái bệnh chung của lũ cán bộ chúng tôi: đói, thiếu dinh dưỡng...
Vào đây được tiếp có một phần tư lít nmáu lại tươi ngoay ngoảy.

Mẹ tôi nhìn nụ cười của ông, bán tín bán nghi. Ông già thấy thế, lắc đầu:
- Ô hay, chẳng lẽ tôi nói dối chị hay sao? Cứ về nhà anh ta ngay bây giờ, khắc biết.
- Mẹ con cháu xin đa tạ bác.
Chúng tôi ra viện, qua ông già gác cổng. Ông ta đã bỏ tờ báo xuống bàn, nhìn chúng
tôi như nhìn vào đám sương mù. Cửa viện chen chân cũng không được. Hàng quà
bánh ngồi la liệt không thứ tự. Khó nhọc, chúng tôi mới lách ra được ra. Mẹ tôi lần túi
áo rất lâu, móc một tấm giấy lịch, trong đó ghi địa chỉ cậu Chính. Tờ lịch cũ, nhàu
nát, đọc mãi mới ra mặt chữ.
- Xích lô.
Một chiếc xích lô cọc cạch lao tới từ dãy xe chờ sẵn. Người đạp là một thanh niên
vạm vỡ. Tóc húi móng lừa:
- Đi đâu bà chị?
- Chú cho hai mẹ tôi con tôi về tập thể K.
- Hai sọi nhé?
- Vâng.
- A ha, bà chị này nhẹ vía đấy. Nào, lên đi.
Anh chàng xích lô hăng máu thí mạng. May mà đường đã vắng. Hồ Thuyền Quang
như mảnh gương xanh thẫm thấp thoáng qua rặng cây. Một người đàn bà béo múp
míp, mặc áo lụa mỡ gà phóng xe máy vọt lên, vừa phóng xe vừa cười tít mắt. Phía
sau, cũng có một phụ nữ đã qua tuổi ngũ tuần, cưỡi Honda đuổi theo. Anh chàng
xích lô phởn chí, hét lên:
- Ếp ếp ếp...
Xe đi hết non một giờ đồng hồ mới tới nơi. Mẹ tôi trả tiền, cảm ơn anh chàng đạp
xích lô. Anh ta trợn mắt nhìn hồi lâu rồi bảo:
- Bà chị ngày tử tế nhỉ!
Nói đoạn anh giơ tay vẫy, miệng huýt sáo rồi đạp xe đi. Chúng tôi đi qua một phòng
trực ghép bằng gỗ, kiểu như những trạm chỉ đường của công an trong thành phố,
nhưng không sơn xanh hoặc sơn trắng mà sơn màu cánh dán. Nhìn gần, thật khó coi.
Ngồi trong phòng trực là một ông già hói, gầy tong teo, vừa ho khù khụ vừa liếc nhìn
khách qua đôi tròng kính lão:
- Đỗ Quốc Chính? Có đấy. Tôi vừa thấy anh ta dắt đứa con lớn đi qua đây buổi chiều.
Chị có giấy tờ gì không?
- Dạ, cháu có chứng minh thư nhân dân.
Ông già ngần ngừ vài giây rồi hất tay:
- Thôi khỏi cần. Cho mẹ con chị đi.
Con đường trải nhựa bề ngang chỉ độ ngót nghét ba thước, nhưng khá dài. Hai bên
đường, những thùng gỗ lớn bằng gian nhà xếp thành dãy. Thùng nào cũng vẽ dấu
hiệu chống va đập, dễ vỡ. Hoặc chiếc ô hoặc chiếc ly thủy tinh. Nhìn nhãn in bằng
mực trên lớp gỗ thông, có thể biết đó là những côngtennơ chở hàng viện trợ thời
chống Mỹ. Những nét chữ đã phai màu. Lớp gỗ cũng đã ải. Mẹ con tôi đi hết đường,
rẽ sang trái. Nơi đây, có những khu nhà một tầng kiểu như những dãy trường học
cấp một xếp song song. Nhà nọ giống nhà kia như hai giọt nước, cùng một kiểu kiến
trúc, cùng màu vôi tường vàng nhạt, cửa sổ và cửa ra vào sơn màu cánh dán, trông
thô lậu, gớm ghiếc. Nhà nhà đã lên đèn. Người ta đang ăn cơm. Đi ngoài đường có
thể nhìn rõ mồn một.

Mẹ tôi lại móc túi tìm tấm lịch. Lần này, mẹ ghé hẳng vào ánh đèn, đọc lẩm nhẩm:
số 56 nhà G. Chúng tôi ngước nhìn đầu hồi của từng căn: A, B, C, D... G là dãy cuối

53
Những Thiên Đường Mù

cùng, sát vào bức tường phần cắt khu tập thể K với một cơ quan khác. Có lẽ đấy là
một nhà máy in vì nghe rõ tiếng máy in chạy rùng rùng bên kia tường. Gia đình cậu
Chính đang ăn cơm. Cả nhà ngồi trên phản. Cậu tôi, một người đàn bà mặt rỗ hoa
tóc kẹp và hai đứa con trai, đứa lớn chừng lên bẩy, đứa nhỏ trạc lên ba. Cả hai đứa
gầy như hai con nhái. Cậu tôi, so với hồi đầu đã sút đi non nửa. Hai hô xương quai
xanh nhô lên. Cái mũi dọc dừa giống mũi mẹ tôi teo hết thịt, trơ xương sống lá mía.
Cậu mặc quần ngủ với cái áo bông phai màu.
- Cậu Chính.
Mẹ tôi gọi tên đứa em trai, ngay từ lúc đứng ngoài hè. Cả bốn người đều quay ra,
nhưng quáng đèn nên họ không thể nhìn rõ mặt chúng tôi.
- Cậu Chính.
Mẹ tôi cất tiếng gọi lần thứ hai, vẫn giọng bồi hồi. Không chờ câu trả lời, mẹ dắt tôi
vào nhà:
- Tôi nghe cậu ống nặng. Vào viện tìm quanh quất mãi, người ta bảo cậu đã xuất
viện chiều hôm qua.
Cậu tôi đứng lên, bảo người đàn bà mặt rỗ hoa:
- Thành này, đây là chị Quế.
Rồi quay sang mẹ con chúng tôi cậu giới thiệu:
- Nhà em, cán bộ trường Đoàn.
Bà mợ tôi, nghe chồng nói thì à lên một tiếng, rồi gật đầu. Mẹ tôi chưa kịp chào lại
mợ ta đã quay đũa gõ lên đầu đứa con trai:
- Ăn đi, trong bữa cơm không được há mồm ra.

Tôi thấy mẹ tôi có vẻ ngượng ngùng, tay chân mẹ thu cất, đôi vai cũng như co lại
trước cái nhìn có tính chất quan sát nghiêm ngặt của người em dâu. Có lẽ mợ ta đã
quen quan sát các học viện trường Đoàn như thế. Cái nhìn sắc lạnh lướt từ tấm khăn
nhung choàng cổ, tới tấm áo len dài tay màu be thẫm đính hàng khuy mạ vàng trang
nhã, từ chiếc làn nhựa mẹ tôi xách trong tay tới chiếc quần sa tanh ngoại mẹ tôi
đang mặc có viền bôđê gấu. Nó bộc lộ cuộc sống của lớp dân sống ngoài biên chế
nhà nước, nó cũng định vị luôn giá trị của họ trong xã hội.

Cậu tôi rót nước sôi vào ấm, rồi từ ấm rót ra một thứ nước trắng phếch, có lẽ bã chè
đã được pha đi pha lại từ chiều hôm qua.
- Chị và cháu uống nước đi.
Mẹ tôi khẽ đáp:
- Vâng. Cậu cứ ra ăn cơm cho xong bữa.
Rồi mẹ đưa mắt trìu mến nhìn hai đứa bé trai giống hai con nhái bén kia:
- Gai cháu đấy phải không?
Cậu tôi gật đầu:
- Vâng, thằng Tuấn, thằng Tú. Chào bác đi con.
Lúc ấy hai đứa mới đồng thanh:
- Chào bác.
Mẹ tôi, từ nãy lúng túng như gà mắc tóc, liền bán víu tiếng chào của hai đứa bé:
- Ối giời, cháu tôi ngoan quá. Cháu Tuấn học lớp mấy rồi?
Thắng bé lại giương mắt chầu chẫu ra nhìn. Cậu tôi bảo:
- Trả lời bác đi.
Nó liền đáp:
- Cháu học lớp hai.
Nói xong, nó cúi xuống chọc đũa vào đĩa nhộng rang hành. Chợt thằng em kêu ré
lên, Nhanh như cắt, mẹ nó trở đũa gò lên đầu con:
- Tuấn, làm cái gì thế hả?
Hóa ra thằng bé gắp nhầm phần thức ăn của đứa em, không biết cố tình hay vô ý. Bị
đánh, nó giơ tay xoa đầu, không dám kêu. Mẹ tôi cúi mặt xuống. Đĩa nhộng, lúc ấy

54
Những Thiên Đường Mù

tôi mới để ý, gạt làm ba phần, mỗi phần chừng 15,16 con. Ngoài đĩa nhộng, có một
đĩa rau muống luộc và một chiếc chén nhỏ, loại chén dùng đựng nước mắm hay múc
chè, đụng thịt nạc băm. Chắc chắn, đó là phần bồi dưỡng cho cậu Chính. Cậu tôi đã
ăn xong bát cơm, trở lại bàn uống nước. Mợ Thành cũng đã ăn xong, bưng cốc nước
sôi để nguội uống một lèo rồi ra ngồi xuống ghế làm việc. Một cái ghế tựa cao, đặt
trước bàn viết có cây đèn chân ốc. Cậu tôi bảo:
- Nhà em phải soạn bài để mai lên lớp. Cô ấy là cán bộ cứng của trường. Gia đình
đều là công nhân,11 tuổi Đảng.
- Vâng.
Mẹ tôi đáp, vẫn không ngẩng mặt lên. Trước những lời giới thiệu đầy kiêu hãnh của
cậu tôi, bà cảm thấy tủi nhục. Một người chị ruột, nhưng chẳng có một giá trị nào
mang lại niềm an ủi cho đứa em. Cậu tôi vừa xỉa răng vừa nói:
- Em vẫn còn được nghỉ. Nhưng không có gì nguy hiểm. Chị không cần lo. Cơ quan
em, toàn gia đình cán bộ, ra vào khó khăn.
Mẹ tôi nuốt nước bọt. Nhưng ngập ngừng một lát, lại ngẩng lên:
- Nhưng... tôi nghe nói cậu yếu lắm, suy dinh dưỡng.
Cậu tôi bảo:
- Chị nghe người ta nói nhảm. Vừa qua, em làm việc căng thẳng quá.
Giọng cậu lạnh tanh. Mẹ tôi không nói thêm được lời nào, cầm nón, xách làn đứng
lên:
- Thôi, thế chị về.
Cậu tôi gật đầu:
- Chị bảo cháu về đi.
Rồi quay vào nhà, cậu gọi:
- Thành ơi, chị Quế về.
Vợ cậu ngẩng lên:
- Chào chị.
Đó là câu chào duy nhất tứ khi mẹ con tôi đặt chân vào nhà. Nói xong, bà mợ tôi lại
cúi xuống cuốn sách. Một cuốn sách rất dày, láng bóng. Nhìn kĩ, có đề chữ: V.I.
Lênin tập 13. Cậu tôi lại bảo:
- Chào bác đi các con.
Hai đứa con trai cậu vươn hai cái cổ cò ra, đồng thanh:
- Chào bác.
Mẹ con tôi ra về. Cậu Chính đưa tiễn hết dãy nhà G. Khi chúng tôi rời khu nhà tập
thể, rẽ vào con dường nhỏ hai bên chất san sát những dãy côngtennơ, mẹ tôi thút
thít khóc. Đầu mẹ cúi gằm xuống, đôi vai mỏng nhô lên. Dáng điệu của một kẻ phạm
lỗi. Tôi bảo:
- Đừng bao giờ đến đây nữa mẹ ạ.
Mẹ tôi rút khăn lau mặt, hỉ mũi sụt soạt rồi nói:
- Tình ruột thịt. Không bỏ được con ạ.
Tôi nói:
- Lần sau mẹ đến, con không đến nữa đâu.
Mẹ im lặng, đôi vai rung lên. Từ lúc ấy cho tới khi ra đường, mẹ tôi không nói thêm
lời nào. Tôi cầm chiếc nón cho mẹ rồi gọi xích lô. Chúng tôi trở về khu ngoại ô lấm
bụi. Những đĩa nhạc cải lương não nề vọng oang oang ngoài phố, giọng ca này lấn át
giọng cakia. một hàng phở rong bắt đầu gõ dịp:
- Xịt tắc... xịt tắc...
Mùi nước dùng có hoa hồi và gừng nướng thơm ngậy bay theo gió. Tôi nắm áo mẹ:
- Con đói quá, mẹ ơi!
Mắt mẹ tôi như mờ đi. Mẹ bảo:
- Ờ, thế mà mẹ quên mất. Từ trưa đến giờ hai mẹ con chẳng ăn gì.
Chúng tôi ngồi ăn phở gánh ngay lối rẽ. Ăn xong, mẹ tôi bỗng kêu khó chịu:
- Đi mau lên, mau lên con...

55
Những Thiên Đường Mù

Mẹ bảo tôi rồi dấn bước như ma đuổi. Tôi vừa đi vừa chạy mới kịp. Vừa về tới nhà,
mẹ tôi chạy nhào ra bể nước. Ngồi thụp xuống miệng cống, mẹ nôn thốc nôn tháo:
- Hằng ơi, gọi cô Vị cho mẹ đi con.
Tôi chạy sang nhà cô Vị, đấm cửa thùm thùm:
- Cô Vị ơi, cô Vị, mẹ cháu làm sao ấy.
Người đàn bà láng giềng đang ngồi cắn hạt dưa, ném ngay nắm hạt dưa trong tay
xuống giường rồi chạy sang nhà tôi. Theo sau cô, lốc nhốc cả bốn đứa con lớn bé.
Chú Vị làm ca ba, phải tảng sáng mới về. Cô Vị bế thốc mẹ tôi vào nhà, đánh gió,
dùng ngải cứu khô đốt các huyệt. Cô lại xoa dầu trùm khắp đầu, lay giật chân tóc.
Mẹ tôi tỉnh, mở mắt nhìn cô:
- Tôi cảm lạnh, phải không?
Cô Vị đáp:
- Cả lạnh, cả đói, cả lao tâm. Chị cảm nhập tâm, phải kiêng lâu đấy.
Mẹ tôi nắm tay người đàn bà láng giềng, nước mắt chảy quanh:
- Tôi thương con Hằng quá, cô ạ.
Lúc ấy tôi đứng sau lưng cô Vị. Vì tôi khuất lấp trong bóng tối, cùng lũ con lốc nhốc
của cô Vị nên mẹ không nhìn thấy tôi. Nhưng tôi thấy gương mặt mẹ, vòng nước mắt
ứa long lanh, và một nỗi buồn tiên cảm, một trắc ẩn mơ hồ trong tia nhìn lúc đó. Tôi
bỏ ra cửa. Tôi không muốn thấy người khác xót thương tôi. Tôi ngồi thụp xuống,
trong bóng tối của lùm cây đăng tiêu bên dàn hoa nhà cô Vị trùm sang. Mấy năm
nay, người trong ngõ thi nhau trồng thứ hoa này. Đó là một loài dây leo có vẻ đẹp
cuồng dại. màu lá xanh quá thể xanh. Với những chùm hoa chi chít màu nghệ thắm,
màu của máu, của lửa, của ráng chiều, của mặt trời giữa ngọ cùng lúc hòa trộn
nhau. Tôi ngồi đó, nghe tiếng trò chuyện trong nhà vọng ra. Mùi dầu tràm, mùi ngải
cứu cháy vẫn tỏa trong không gian, thơm ngai ngái. Bỗng dưng, một con vật lừ lừ đi
tới. Một con chó lạc chăng, hay con mèo của chú Tín bỏ đi hoang ba bốn tháng lại
quay về? Nó vẫn lử thử bước tới. Qua cây cột đèn, tôi nhận ra đó là con Trắng xồm.
- Trắng xồm... Trắng xồm...
Tôi gọi thì thầm, Giọng tôi trở nên lạc điệu, xa lạ như giọng của một người nào khác.
- Trắng xồm, lại đây...
Con chó khẽ đụng đậy cái tai xơ xác, chảy thõng một bên đầu. Có lẽ nó không nhận
ra tiếng gọi của tôi. Nó lượn lờ thêm nửa vòng nữa. Lúc tôi tưởng nó đến gần, nó lại
đi, quay trở lại đường cũ. Con Trắng xồm đi qua cây cột đèn, cái bóng nhù hòa như
một mảnh vải rách ai kéo lê trên hè phố. Đúng lúc ấy, anh con trai què của bà Miều
lại gào lên. Anh ta ngồi suốt ngày trên ghế vải bố, có lúc anh ta đòi lấy vợ, có lúc
anh ta đòi nhảy xuống giếng tự vẫn, có lúc anh ta đòi đi học nghề. Nhưng rút cục,
anh ta chỉ biết đọc biết viết và không làm cái nghề nào khác hơn là ngồi trên ghế,
đọc đi dọc lại vài cuốn truyện trinh thám, tán tỉnh chòng ghẹo bọn trẻ con, bị bọn
trai trẻ chòng ghẹo lại, nghe đủ loại chuyện tục tĩu, mơ tưởng tới cuộc sống trên
thiên đường, và thỉnh thoảng lại gào lên:
Mùa thu sang lá vàng rơi đầy
Hàng bạch dương buồn im xác xơ ven đồi...

Giọng hát sai lạc rót vào nỗi sầu phố xá. Hòa với tiếng rao hàng:
- Bánh nóng đây. Bánh nóng óng óng đây ây ây...
Tiếng hai cây tre gõ nhịp của gánh phở rong:
- Xịt tắc... xịt tắc... tắc xịt tắc...
Cô Vị kéo lũ con ra về. Giơ tay xoa đầu tôi, cô bảo:
- Mẹ mày đỡ rồi đấy. Vào ngủ đi.
Tôi đóng cửa, trèo lên giường. Mẹ tôi đã ngũ. Nhưng tôi vẫn như thấy đôi mắt long
lanh của mẹ, mỗi tia nhìn ánh lên một nỗi buồn tiên cảm. Có lẽ, ý nghĩ cuối cùng của
con người trước khi bước vào giấc ngủ thường có được linh cảm tính nhạy, như tia
sáng cuối cùng lóe lên trước khi tắt mặt trời. Sáng hôm sau, mẹ tôi vẫn sốt. Nhưng

56
Những Thiên Đường Mù

khi tôi mua cháo ép mẹ ăn, mẹ lại nắm tay tôi:


- Được rồi, mẹ sẽ ăn. Nhưng con phải hứa một điều.
Tôi gật đầu:
- Mẹ ăn cho khỏi ốm. Điều gì con cũng hứa.
Đôi mắt của mẹ lóe lên:
- Con thương mẹ chứ?
Tôi đáp:
- Sao con không thương mẹ? Mẹ ăn cho nóng. Cô Vị bỏ nửa bát lá xương sông với lá
hành.
Mẹ tôi nhìn vào mắt tôi:
- Mẹ sẽ ăn. Mẹ sẽ khỏi ngay thôi. Nhưng con hãy đến nhà cậu Chính.
Tôi im lặng. Chắc lúc ấy tôi cau mày hoặc nhăn trán, nên mẹ tôi hối hả nói thêm:
- Dù sao mẹ cũng chỉ có cậu là người ruột thịt duy nhất trên đời. Cậu ấy thiếu ăn,
cậu ấy khổ quá. Hai đứa em của con nữa. Trông chúng giống như hai cái giải khoai.
Tôi nghĩ:
- Sao mẹ không nói thẳng ra: Hai đứa cháu ruột của mẹ. Hai giọt máu mang dòng họ
Đỗ...
Cuối cùng, mẹ cũng giống cô Tâm. Hai người đàn bà ruột thịt của tôi. Nhưng tôi đã
không nói điều tôi nghĩ. Cuộc sống lẻ loi đã dạy tôi khôn sớm hơn các đứa trẻ bình
thường. Tôi ôn tồn nói với mẹ:
- Được rồi, Mẹ ăn đi đã.
Bưng bát cháo, tôi kề sát môi mẹ. Nhưng mẹ giữa tay tôi lại, và nhìn tôi, như người
ta cầu khẩn một lời nguyền trước khi nhảy vào lửa:
- Con thương mẹ nhé. Con hứa đi.
Tôi gật đầu:
- Vâng, con hứa.
Mẹ tôi hớn hở. Mẹ ăn hết bát cháo, uống thuốc cảm rồi sau đó,bảo tôi đem cho mẹ
chiếc làn. Rút chiếc túi lụa đen đựng tiền, mẹ lấy ra một xấp bạc, đếm và bảo tôi:
- Con mua hai cân giò, hai cân chả quế, hai cân thịt nạc đem cho cậu. Thịt nạc mợ
ấy làm ruốc, còn giò chả cho cậu và các em ăn. Nói với cậu mợ rằng mẹ cháu gửi
thức ăn tới cho hai em Tuấn và Tú.
Tôi cầm tiền, đáp”:
- Vâng.
Mẹ dặn:
- Giò chả mua ở phố Hàng Bông. Còn thịt thăn lấy của cô Hòe. Nói cô bán cho mẹ
cháu con lợn ngon nhất.
Tôi đáp:
- Vâng.
Mẹ bảo:
- Thế thôi. Con thay áo đi cho sớm sủa. À đừng có cói với cậu mợ là mẹ ốm.

Mẹ dặn dò tôi điều cuối cùng, rồi yên tân trùm chăn nằm xuống. Tôi đã ra chợ, rồi
đạp xe lên phố Hàng Bông, mua bán đủ thứ theo lời mẹ dặn. Xong xuôi, chưa tới 10
giờ, tôi rẽ vào nhà đứa bạn cùng lớp chơi. Đúng 11 giờ rưỡi, tôi đạp xe tới khu tập
thể K. mang theo tấm thẻ học sinh. May sao, lần này người gác cửa lại là một bà già
béo tốt, gương mặt phúc hậu. Bà đang ngồi thái dưa cải muối. Bà cho tôi vào ngay,
không hỏi giấy tờ. Tôi phóng xe thẳng tới nhà cậu Chính. Cả hai đứa con trai của cậu
tôi đang chơi ngoài cửa. Chúng dùng xẻng moi đất ở một kẽ gạch vỡ lên. Chiếc xẻng
nhựa bé như chiếc thìa xúc tương ớt, cái xô nhựa cũng nhỉnh hơn chiếc chén hạt mít
uống trà. Thấy tôi, chúng nhớn nhác gọi:
- Mẹ ơi, có khách.
Mợ Thành đang lúi húi thu dọn gì đó trong nhà. Nghe con gọi, quay ra:
- Khách nào?

57
Những Thiên Đường Mù

Giọng của một bà chủ muốn đuổi khách ra khỏi cửa. Tôi nhớ tới cặp mắt cầu khẩn
của mẹ tôi. Tôi cúi chào:
- Cháu chào mợ ạ!
Mợ ta đưa mắt nhìn tôi, à lên một tiếng rồi nói:
- Cậu Chính chưa về.
Tôi đáp:
- Mẹ cháu bảo cháu đem cho em Tuấn và...
Tới đó, tôi thấy đôi mắt người đàn bà đảo một vòng lẹ như chớp, rồi hạ giọng, mợ ta
nói:
- Vào nhà, hãy vào nhà đã...
Tôi gỡ chiếc làn tre nặng trĩu từ ghiđông xe đạp xuống, xách vào. Mợ ta vội đóng
cửa, rồi hất hàm bảo tôi:
- Cháu ngồi xuống ghế đi.
Tôi vẫn đứng gần cửa, và nói:
- Mẹ cháu sai cháu đem thức ăn cho em Tuấn và em Tú. Đây.
Tôi mở lớp giấy bao phủ bên trên, lần lượt lấy ra hai cân giò lụa nguyên cây, hai cân
chả quế bọc lá chối nướng, hai cân thịt thăn nõn gói giấy cẩn thận. Tôi đặt tất cả lên
mặt bàn. Đôi mắt người đàn bà như tối tăm đi. Mợ ta lắp bắp:
- Không được... không được...
Nói rồi, mắt đảo ra cửa, dường như sợ một cặp mắt nào đó rình mò. Tôi xách làn lên,
nói:
- Cháu chào mợ, cháu về.
- Khoan, khoan đã.
Mợ ta vồ lấy tay tôi, nói với một giọng sai lạc:
- Không hiểu ra sao cả. Chờ tí đã... cậu về bây giờ đây.
Tôi nhìn những nốt rỗ hoa trên mặt người đàn bà, bỗng thấy mệt mỏi. Trèo lên xe
đạp về cũng chán. Tôi ngồi xuống ghế. Hai đứa trẻ lúc đó ló đầu vào:
- Ra ngoài chơi... Tuấn, Tú...
Mợ ta hét lên đột ngột, đến tôi giật bắn người. Trong đôi mắt tối tăm ấy, lộ ra vẻ
hoảng sợ. Tôi không hiểu nguồn cơn. Tôi bám chặt lấy thành ghế, nhìn hai đứa bé
chạy vụt ra ngoài như hai con chuột, gương mặt nhớn nhác. Người đàn bà khép cửa
lại, rồi xếp những gói thực phẩm vào chiếc trạn gỗ, kê phía lối đi vào buồng trong.
Dáng điệu hối hả như tên trộm cất giấu hàng chết. Có tiếng gọi từ bên ngoài:
- Sao lại đóng cửa thế này?
Giọng cậu Chính. Cậu tôi đẩy cửa vào. Thấy tôi, mặt cậu sa xuống:
- Cậu đã bảo rồi. Cậu đã khỏe. Sao mẹ mày còn sai đến đây?
Mợ Thành, vừa rửa tay sau nhà đi ra, đón lời:
- Chị ấy sai cháu đến chơi.
Tôi nói:
- Mẹ cháu bảo hai em gầy quá. Mẹ cháu gửi thức ăn cho em Tuấn, em Tú.
Cậu tôi nhăn mặt lại. Trán cậu nổi u lên, giận dữ:
- Tạng chúng nó gầy. Có phải cứ gầy là thiếu ăn đâu.
Ngừng lại một lát, cậu nói thêm:
- Dù có thiếu, cũng là tình hình chung. Không có gì đáng phàn nàn. Đấy nước còn
khó khăn.
Tôi nói:
- Cháu không biết. Cháu chỉ làm theo lời mẹ cháu.
Không chờ cậu trả lời, tôi xách làn đứng lên. Lúc ấy, mợ Thành bước ra, đứng giữa
cậu Chính và tôi, giọng phân giải:
- Đấy là cậu nói chung. Nhưng dù sao, mẹ cháu cũng tốt với các em, đúng không?
Tôi không trả lời, bước khỏi cửa. Lúc tôi về nhà, mẹ tôi hỏi đón từ trong buồng:
- Hằng đã về phải không con?
Mắt mẹ hau háu nhìn tôi, háo hức, trông ngóng. Tôi đáp:

58
Những Thiên Đường Mù

- Con đưa cậu mợ ấy rồi.


Mắt mẹ ánh lên mừng rỡ:
- Cậu đi làm rồi chứ?
- Vâng.
- Em Tuấn, em Tú ra sao?
- Bình thường.
- Chúng nó có nhận ra con không?
- Có.
- Chúng nó có mừng không?
- Mừng.
Mẹ chép miệng:
- Rõ đoảng vị, mẹ quên không bảo con mua cho hai em ấy mấy cặp bánh dầy cho
chúng nó ăn bánh dầy kẹp chả. Cậu mợ ấy lương bổng như thế, các em con chẳng
mấy khi được miếng ngon.

Tôi không trả lời, bụng đầy cơn tức. Chẳng phải vì ghen tuông với hai đứa bé, nhưng
tôi không thể yêu chúng được. Càng không thể yêu bố mẹ chúng. Tôi quay mặt vào
tường, bĩu môi:
- Thế mà còn dặn, con đừng nói với cậu mợ là mẹ ốm nhé. Chẳng ma nào nó thèm ỏ
ê...
May, mẹ tôi đã không nghe rõ những tiếng lầm bầm. Mẹ hỏi:
- Cái gì thế Hằng?
- Không có gì đâu mẹ ạ. Con mắng lũ kiến. Chúng nó bu đen cả lọ đường.
Hai ngày sau, mẹ tôi gánh hàng ra chợ, mặc cô Vị khuyên can. Mẹ nói:
- Cô đừng lo, tôi khỏe lắm. Gánh gáng hàng cứ nhẹ như lông ngỗng.
Tôi hiểu ý nghĩ của mẹ: Giờ đây, mẹ có nhiệm vụ phải bảo trợ cho hai đứa cháu. Mẹ
có nguồn hạnh phúc mới. Sự hy sinh quyến rũ làm sao. Tối tối, tôi thấy mẹ ngồi đếm
tiền, lẩm nhẩm tính toán say mê khác thường. Mẹ buôn thêm cả măng tây và cà
chua. Cô Vị bảo:
- Mẹ mày tham quá. Sức người có hạn, cứ quay như chong chóng cả ngày thế nào
cũng ngã bệnh. Khỏe đến như voi cũng còn gục chứ chẳng phải người.

Dịp ấy, chúng tôi được nghỉ học kỳ. Lũ bạn rủ tôi ra bờ sông chơi. Với chúng tôi,
những cuộc đi như thế thật quyến rũ. Tôi mang sẵn bao diêm, tới nơi, chúng tôi gom
góp củi khô, đốt lửa. Cả bọn xúm quanh, nhìn ngọn lửa liếm từng cành cây hay búi
cỏ, tưởng tượng tới một hòn đảo hoang, một khe núi, đời sống của những bộ lạc man
dại xưa. Gió thổi. Mùi các thân cây phơi nắng, thân ngô, thân cúc dại, dây bí ngô
hoặc cỏ mật bốc lên, ngào ngạt. Hạnh “diếc”, cô tổ trưởng tổ học tập của tôi, cao lêu
đêu như cái cọc dẫn đầu một tốp ba đứa đi tới ruộng ngô gần nhất bẻ ngô về nướng.
Trước khi đi, nó bảo tôi:
- Mày có nhiệm vụ canh gác và kiếm thêm củi.
Tôi lắc đầu:
- Không. Tao không ở lại một mình.
Nhưng con bé đã trợn ngược cặp mắt xếch lên:
- Đồ hèn. Ngồi ở đấy.
Tôi đành tuân lệnh. Vừa kiếm củi, tôi vừa đưa mắt tháo nhác nhìn bọn chúng. Chừng
nửa giờ sau, bọn chúng mới về, đứa nào đứa ấy phưỡn bụng ra. Toàn ngô bên trong.
Chúng tôi nướng ngô ăn. Bắp ngô nướng lúc đó ngon hơn mọi thứ mỹ vị trên đời. Tan
cuộc chơi trời đã tối mịt. Chúng tôi rủ nhau về.

Phố đã lên đèn. Ở nhà tôi, có tiếng người lao xao trò chuyện. Người ta nói gì đó tôi
không nghe rõ. Toàn những bạn buôn của mẹ tôi và hàng xóm. Người chép miệng,
kẻ lắc đầu. Lần lượt họ đi ra. Còn một mình mẹ tôi ngồi trên giường, mặt tái nhợt.

59
Những Thiên Đường Mù

Thấy tôi, mẹ gọi:


- Hằng ơi.
Tôi tới gần:
- Mẹ cảm lại hay sao thế?
Sờ trán mẹ, lạnh toát như nước đá. Hai đường gân đập phật phồng hai bên thái
dương. Mẹ tôi đáp, giọng âm thầm:
- Mất hết rồi con ạ. Chỉ một phút thôi, mẹ quay đi bưng bát cháo. Cả vốn liếng suốt
hai tuần lễ vừa rồi.
Tôi nhìn mẹ, ngạc nhiên:
- Ô hay, con tưởng người ta vẫn bưng thức ăn tới bán?
Ngày thường, mẹ tôi cùng những người bán hàng khô ngồi thành dãy. Tới bữa, hoặc
cơm, hoặc cháo gà, cháo vịt, hoặc bún thang, bún ốc... Các hàng rong đem bán tận
nơi. Làm sao mẹ tôi có thể quay đi cầm bát cháo mà mất cả túi tiền? Người ta hói:
Buôn bán có bạn có thuyền. Những người ta thành nhóm thành hội kiếm ăn thường
có ý thức bảo vệ nhau. Mẹ tôi, tránh con mắt nhìn của tôi, đáp khe khẽ:
- Mẹ mua... mẹ mua bát cháo đỗ.
Vậy, tôi đã hiểu. Mẹ tôi hà tiện, mẹ bỏ quầy nhảy sang dãy hàng bên kia, mua cháo
đỗ xanh đem về ăn với đường cát của nhà. Không ngờ bọn kẻ cắp rình đúng dịp liều
lĩnh đầu tiên để nẫng nhẹ túi tiền của mẹ. Chợ Tết, người mải bán, người mải mua,
các bạn hàng không để ý. Vả lại, xưa nay, chưa ai hàng động như thế bao giờ. một
bát cháo, hà tiện được bao nhiêu? Mẹ tôi thì thầm:
- Vận hạn con ạ. Biết làm sao?
Tôi nói với mẹ:
- Mẹ đi nghỉ đi. Con nấu cháo nhé?
Mẹ đáp:
- Tùy con, con ăn gì mẹ ăn nấy. Lưỡi mẹ giờ đắng như nước vôi.
Tôi nấu cháo thịt, gia nhiều hành và hạt tiêu cho mẹ. Phần mình, tôi húp một bát
nhỏ rồi chạy ra đầu phố mua ngô nướng. Bà lão bán ngô cúi tấm lưng còng xuống
chậu than. Chiếc quạt nan trong tay bà phe phẩy một cách kiên nhẫn. Than hồng rực
lên, bắn từng chùm hoa cải. Những hạt ngô già nứt ra, nở hoa trắp lốp.
- Cho cháu mua một cái. Chọn cái non bà nhé.
Bà lão ngẩng đầu lên:
- Con nhà Quế đã lớm thế này ư? Má hồng mắt đen, sắp đến tuổi lấy chồng rồi.
Tôi sực nhớ, Hồi tôi con nhỏ, mẹ tôi đã từng bưng chậu than ra chân cột đèn như bà.
Và mỗi đêm, mẹ nhặt những đồng bạc lẻ nhọ nhem than bụi để nuôi tôi. Bàlão lật đi
lật lại một chiến thuôn thuôn, hạt rất đều.
- Chiếc này ngon nhất thúng đấy nhé.
Tôi trả tiền bà.
- Cho cháu xin.
Những hạt ngô nếp dẻo quẹo dính vào chân răng. Mùi ngô thơm và những tia lửa
bắm tóe ra từ chậu than, rọi sáng một đêm đông quá vãng. Những cột đèn trên hè
phố trôi dập dềnh như trong đám sương mù. Chợt một gã cà lơ túm đuôi tóc tôi, cười
cợt:
- Em ơi, dừng lại cho anh yêu một tí. Ôi, đôi môi xinh tệ... Cười lên cho anh ngắm
nào... 13 tuổi chưa?... Phải rồi, tuồi này ngày xưa đã có chồng có con rồi đấy... Lấy
chồng từ thủa 13, đến năm 18 em đà năm con... Vậy mà còn thẹn thùng cơ chứ?

Tôi cố sức giằng khỏi tay gã. Gã trạc ngoài hai mươi, gương mặt đẹp như tài tử Alain
Delon, ria mép tỉa tót điệu nghệ. Miệng gã sặc hơi bia. Gã xoay tôi trong tay như
xoay con búp bê gỗ, rồi buông tôi ra, gã phá lên cười:
- Ôi, em bé sợ thất thần, trông đến là tội nghiệp.
Gã bước đi, những bước dài khoan thai, như bước của một tài sử siêu việt dạo qua
đám công chúng ngưỡng mộ. Và gã hát, bằng tiếng Pháp, bài hát tủ của nữ danh ca

60
Những Thiên Đường Mù

Dalida: Lịch sử tình yêu. Giọng hát ám ảnh của gã lơ lửng trong không gian, như một
đám bụi kết đọng, không tan được. Tôi nắm chiếc ngô nóng bỏng trong tay, trở về
nhà. Mẹ tôi ngồi dậy, ngẩn nhìn cuốn lịch con:
- Sao mẹ không ngủ đi?
Thay vì trả lời tôi, mẹ ngước mắt lên:
- Mai đã là 25 tết. Nhà cô Vị cúng ống Táo ngày hôm qua. Mẹ mải bán hàng, quên
mất.
Rồi mẹ lại buông tiếng thở dài:
- Đúng là vận hạn.
Tôi an ủi mẹ:
- Đằng nào chuyện cũ cũng qua rồi. Ngủ đi mẹ.
Mẹ tôi gấp cuốn lịch tay, lẩm bẩm:
- Bao nhiêu việc phải lo.
Tôi nói:
- Có hai mẹ con, đặt vài cái bánh chưng cũng xong. Mẹ đừng lo cho mệt xác.
Mẹ tôi cười, lắc đầu:
- Con nghĩ đơn giản quá.
Tôi sực tỉnh, chắc chắn mẹ tôi không chỉ lo cái Tết cho mẹ con tôi. Bây giờ, mẹ đã gia
nhập vào một guồng máy khác. Trách nhiệm khác. Sự hy sinh thật dịu ngọt và êm
đềm.

61
Những Thiên Đường Mù

Chương 10

Sáng hôm sau tôi dậy muộn. Trời rét. Nhưng vừa xỏ chân vào guốc, đã nghe tiếng
người ngoài sân. Tôi lò dò chạy ra cửa. Hai thanh niên lực lưỡng đang khuân sắt. Mẹ
tôi đã bán lại hai tạ sắt dư định đổ mái bằng cho nhà ông Tạo ở ngoài phố. Ông ta
cơi tầng gác thứ hai thêm một gian và cố làm xong trước Tết để ăn một cái Tết vui
vẻ. Mua được mớ sắt rẻ, trông ông sung sướng hể hả ra mặt. Ông chỉ huy đám con
khuân vác, điệu bộ tung tăng, cười hớn hở hết cả lũ bốn chiếc răng bịt vàng.

Mẹ tôi gánh hàng ra chợ. Trước khi đi, còn quay lại dặn:

- Chiều nay nấu cơm sớm Hằng nhé. Ăn xong, mẹ con mình có việc phải đi.

Bốn giờ chiều, tôi đã nấu cơm xong xuôi. Cá kho, dưa cải, vài miếng đậu phụ sống.
Xưa nay, nhà chúng tôi vẫn sống tằn tiện. mẹ tôi quẩy gánh hàng nặng oằn đòn
gánh về. Khi mẹ dỡ lần lượt các thứ hàng ra, tôi thấy mẹ đã sắm sửa đầy đủ vật
dụng cho ngày Tết: nào giò, nào chả, nào thịt, nào mỡ, rồi gạo nếp, đỗ xanh, lạc,
măng, miến, bánh da nem, bóng bì lợn... Trông mẹ tươi tỉnh hẳn lên:

- Lạy Trời, qua năm hết vận hạn, làm ăn khấm khá lên mẹ con mình sửa nhà cũng
được.

Tôi đáp: Vâng.

Chúng tôi ăn cơm xong vừa lúc trời sẩm tối. Đồng hồ chỉ 5 giờ 27 phút. Mẹ tôi nhẩm
tính:

- Giờ này, chắc cậu mợ Chính sắp ăn cơm. Ta cứ thong thả con ạ.
- Vâng, con chạy sang nhà thằng Khang một tí.

Tôi chạy sang nhà Khang sứt, rủ nó chơi cờ carô. Nửa tiếng sau tôi quay về, đã thấy
mẹ sắp xếp nhà cửa gọn gàng. Một chiếc túi cói lớn, căng phồng chờ trước cửa.

Mẹ bảo: Đi đi con.

Chúng tôi ra phố, gọi xích lô tới khu nhà tập thể K. Nhà cậu tôi đang sửa soạn chứ
chưa ăn cơm. Ở đây, họ ăn cơm muộn hơn đám dân ngoài phố. Mợ Thành đang lom
khom thái một cà muối chườm thành các lát mỏng, trộn đường và tỏi. Trên mâm,
một đĩa bắp cải xào và vài miếng chả cá thái nhỏ bỏ trong bát đựng nước mắm. Cậu
tôi đang ngồi đọc báo. Hai đứa con trai gõ đũa xuống mâm, chờ tới phút được lệnh
ăn cơm. Thấy mẹ con tôi vào, cậu Chính ngẩng lên:

- À chị Quế.

Rồi cậu cau mặt lại tức khắc:

- Em đã bảo chị đừng lo gì hết. Chị... rắc rối quá.

Mẹ tôi, với vẻ mặt của một kẻ có lỗi muốn được cứu chuộc, đáp ấp úng:

- Chẳng là... hai cháu gầy quá, Chị muốn cho các cháu...

62
Những Thiên Đường Mù

- Chị buồn cười. Tạng chúng nó gầy. Hồi nhỏ em cũng có béo đâu?

Hồi nhỏ... Cái danh từ ấy khơi gợi cả một dĩ vãng thân ái. Mắt mẹ tôi sáng lên, và vẻ
mặt mẹ vừa xúc động vừa có gì đó quỵ lụy, như mặt một con chó cưng ngửi thấy hơi
hướng thân chủ:

- Ôi chao, hồi nhỏ cậu cũng khá lắm, chứ đâu có như cháu Tuấn cháu Tú bây giờ.

Bà vợ rỗ hoa của cậu tiến ra, tay bưng bát cà, miệng cười:

- Chị Quế ăn cơm với chúng em.

Rồi như chợt nhớ ra tôi ngồi phía sau, mợ ta a một tiếng rồi nói thêm:

- Cả cháu Hằng nữa.

Vẻ mặt tươi tỉnh của người em dâu khiến mẹ tôi hớn hở. Mẹ cười, hai hàm răng lấp
lánh:

- Mẹ con tôi ăn rồi. Cậu mợ cho các cháu ăn. Đây, quà Tết bác chuẩn bị cho Tuấn,
Tú.

Mẹ tôi mở chiếc túi cói. Ngay tức khắc, mợ Thành lao ra, khép chặt hai cách cửa. Sau
đó mợ ta còn kéo tấm riđô bằng vải hoa Trung Quốc đỏ rực che kín khuôn cửa sổ. Mẹ
tôi đặt trước mặt vợ chồng người em trai toàn bộ những thứ đồ vật mẹ đã sắm ngày
hôm nay. Một cái Tết trù phú cho tám người chứ không phải bốn người. Đôi mắt
người em dâu của mẹ tối tăm lại, trong lúc những nốt rỗ như nở to hơn và trắng ra.
Mắt mợ ta hết dáo lên lại dáo xuống. Cậu Chính quay đi, miệng bảo:

- Không cần, không cần... chị lãng phí thế làm gì?

Những câu nói của cậu không có âm sắc, không nhằm vào ai. Như một đường bóng
không địa chỉ trên sân đấu. Hai đứa con cậu hét lên, vươn cổ ra nhìn. Từ trước tới
nay, chúng chưa thấy sự trù phú bao giờ. Mợ Thành huỳnh huỵch chạy ra rồi chạy
vào, khuân mớ thực phẩm cất vào tủ, vào trạn. Tôi nghe tiếng loảng xoảng, tiếng lục
đục gì đó trong buồng, chắc chắn đó là sự va dập khi bà mợ của tôi thu xếp, chứa
đựng đám của cải không có trong kế hoạch.

Đồng hồ treo tường nhà tren thong thả gõ bảy tiếng. Cậu tôi bảo:

- Thành, cho các con ăn cơm thôi.

Bà vợ cậu đáp:

- Được rồi, em ra ngay đấy.

Lát sau, mợ đem ra một đĩa giò, miếng nào miếng nấy thái mỏng như lưỡi mèo. Vậy
mà, mợ phải khép kín cả hai cánh cửa sổ. Người đàn bà nói.

- Để cho họ khỏi nhòm ngó.

Bây giờ, tôi mới hiểu vì sao khi tôi đem quà tới hai con mắt mợ ta cứ đảo lên đảo
xuống như mắt kẻ trộm. Hẳn là ở đây, người ta có thói quen rình mò nhau, kiểm soát

63
Những Thiên Đường Mù

lẫn nhau, và kẻ nào ăn hơn một miếng sẽ trở thành đối tượng cho cả đám đông nghi
vấn.

Hai đứa trẻ đã thôi gõ đũa cành cạch vào miệng bát. Chúng ngồi im, mắt châu hẫu
nhìn đĩa giò. Mẹ chúng, người em dâu mẹ tôi bắt đầu cuộc phân chia khẩu phần
thường lệ. Mẹ tôi, đắn đo, rụt rè một hồi rồi nói:

- Mợ cứ cắt thêm cho các cháu.

Mợ ta đáp gọn lỏn.

- Không được, sinh hoạt phải có kế hoạch, tổ chức.

Nói đoạn, mợ ta gắp một đũa rau cải xào, bỏ vào miệng, rồi vừa nhai vừa nói:

- Chị ăn cơm.

Tôi muốn về. Nhưng mẹ tôi đang ngắm nhìn hai đứa cháu trai của dòng họ Đỗ.
Chúng ăn một cách ngon lành, say sưa. Mẹ tôi nhìn chúng, cũng say sưa như thế. Mợ
Thành vừa ăn vừa nói:

- Hồi nhà em cầm tiền về, đã bảo mua lấy cái tivi không chịu. Sắm giường tủ, bàn
ghế xong, đem gửi hết vào ngân hàng lấy tiền lãi. Bây giờ thành mớ giấy lộn.

Cậu Chính đưa mắt lườm vợ:

- Thành, ăn nói hay nhỉ!

Vợ cậu như sực tỉnh, im bặt. Mẹ tôi đỡ lời:

- Thời vận, tính sao được hả mợ? Cũng nhiều người hai thứ tóc còn dại, huống chi
cậu ấy.

Cậu tôi trừng mắt:

- Gửi tiền vào ngân hàng nhà nước, sao chị lại nói là dại?

Mẹ tôi ấp úng:

- Ấy là... Tôi chỉ nói thế thôi. Vì hai năm nay, tiền mất giá mấy chục lần. Lúc gửi cả
lạng vàng, bây giờ mua được hai gói mì chính.

Cậu tôi cắt lời:

- Lạng với chả hoa. Em có phải dân tiểu thương như chị đâu mà biết mấy thứ ấy.

Mẹ tôi cúi mặt, làm thinh. Tôi định kéo mẹ về, nhưng chợt có tiếng gõ cửa. Giọng vui
vẻ của một chàng trai.

- Thủ trưởng có nhà không ạ?

Rồi anh ta xuất hiện tức khắc, không đợi ý kiến chủ nhà.

64
Những Thiên Đường Mù

- A ha, giờ thủ trưởng mới ăn cơm. Sao muộn thế?

Cậu tôi bỏ đũa bát, bước ra bàn:

- Ngồi xuống đây.

Thấy nhà có khách, mẹ kéo tôi ra giường ngồi. Chàng trai trẻ nháy mắt với tôi một
cách hồn nhiên:

- Em gái cứ ngồi đây. Thế giới bình đẳng mà.

Anh cũng trạc ngoài 20, người thấp đậm, tóc dày, mắt dài. Khi cười, trông tinh
nghịch và lẳng lơ. Anh ta mặc sơ mi xanh chấm đen, quần bó, dáng khỏe khoắn.
Gương mặt rám nắng, riêng hai gò má hồng bóng lên. Thấy cậu Chính rót nước vào
ấm trà, anh kêu to:

- Thủ trưởng cho em uống xái ba hay xái tư đấy ạ?

Cậu Chính không đáp, đặt chến nước trước mặt anh nghiêm giọng hỏi:

- Có việc gì thế cậu?


- Dạ, có việc đây.

Chàng trai đáp, đoạn rút từ lưng quần phía sau một cuốn sổ con. Mở cuốn sổ, anh
nói:

- Báo cáo thủ trưởng, sắp Tết Nguyên đán, lại có đoàn đại biểu công đoàn các tỉnh
phía Nam ra họp, chúng em dự định tổ chức buổi lễ kỷ niệm nhà thơ Đồ Chiểu.
- Đồ Chiểu nào?
- Dạ, nhà thơ yêu nước nổi tiếng nhất những năm đầu thế kỷ, một phần linh hồn của
những người dân miền Nam.
- Cậu đưa nội dung tôi duyệt.
- Chàng trai đưa ra một bản đánh máy lớn, gấp làm 8. Cậu Chính mở rộng tờ giấy,
trải gần kín mặt bàn. Cậu đeo kính, cắm đầu đc. Chàng trai đưa mắt nhìn hình cô gái
múa ô trên tờ lịch, chờ đợi. Lát sau, cậu ngẩng lên nghiêm giọng:
- Không được.

Chàng trai sửng sốt:


- Sao ạ?

Cậu Chính cau mày:


- Nhà thơ yêu nước gì mà ủy mị thế? Cậu nghe đây.

Cúi xuống, đưa ngón tay lên tìm các dòng chữ, cậu đọc:

- Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh khói nhuốm mày mây. Thế này
làm gì có tinh thần xốc tới, liên tục tiến công? Bỏ, bỏ... Đồ Chiểu cũng bỏ.

Chàng trai nói:

- Thưa thủ trưởng, những năm đó cuộc kháng Pháp của nhân dân ta đang ở trong
thời kỳ đen tối. Hoàng Điệu tự sát. Trương Công Định bị xử trảm. Hàng vạn sĩ phu
yêu nước bị bức hoặc bị lưu đày, trong hoàn cảnh cụ thể đó...

65
Những Thiên Đường Mù

Cậu Chính giơ tay chém ngang.

- Tôi biết... tôi biết... nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào người chiến sĩ cách mạng
cũng lhông được phép ủy mị, buồn rầu. Ông Đồ Chiểu này không có tinh thần của
người cách mạng. Lại còn đây nữa nhé.

Cậu cúi xuống, đọc tiếp:

- Phan Lâm, mãi quốc, triều đình khi dân... Hỏng. Hỏng. Câu này còn nguy hiểm hơn
nữa. Nói triều đình là muốn ám chỉ trung ương hay sao?

Mặt chàng trai đỏ như say bia, trên cần cổ vạm vỡ của anh, nổi lên một đường gân
căng thẳng, phập phồng:

- Nhưng thưa thủ trưởng, trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của chúng ta, rất nhiều
chiến sĩ đã ngâm thơ Đồ Chiểu, nghe những làn điệu dân ca Nam Bộ phổ thơ Đồ
Chiểu trước giờ xuất trận. Bất kỳ người nào chịu khó tìm hiểu và nhận biết đời sống,
đều thấy nhà thơ Đồ Chiểu có một chỗ đứng không ai thay thế được trong tâm hồn
người dân miền Nam.

Đến lượt cậu Chính đỏ cả mặt lẫn cổ. Cậu chòng chọc nhìn chàng trai sau cặp mắt
kính:

- Không ai thay thế được? Cậu nói thế nghĩa là Đồ Chiểu còn đứng cao hơn Đảng,
trong tâm hồn nhân dân miền Nam, đúng không?

Bàn tay cậu xòe ra, như lưỡi kiếm. Chắc chắn nó sẽ chén đứt đôi cái cổ chàng trai,
nếu nó muốn. Dù đó là một cần cổ vạm vỡ, tràn trề sinh lực. Mặt chàng trai đang đỏ
rực bỗng chuyển sang màu xanh xám rồi xanh lẹt, mồ hôi đổ lã lã trên trán. Cậu
Chính nói:

- Uy tín của Đảng là tuyệt đối trong lòng dân tộc, hôm nay và mãi mãi về sau. Không
một ai có thể so sánh với chỗ đứng duy nhất đó.

Chàng trai cúi đầu, im lặng. Sự quy phục của anh ta làm cậu nguôi giận. Như con gà
chọi đã hả máu sau khi bật mấy cú đá thí mạng vào ức đối pgương, cậu nói tiếp,
giọng đã bớt căng thẳng:

- Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên một chiến thắng tuyệt diệu. Do chiến thắng
ấy, chúng ta trở thành lương tâm của nhân loại, trở thành ngọn đuốc dẫn đường cho
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc toàn cầu. Trong ba dòng thác cách mạng của thế
giới, chúng ta là một ngọn cờ. Cậu phải luôn luôn quán triệt tinh thần đó.
- Thưa thủ trường em nhớ rồi.
- Chúng ta, những người làm công tác tư tưởng, đội quân canh gác cho thành trì
cách mạng, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác với những biểu hiện ủy mị, thiếu tính
chiến đấu, suy đồi.
- Thưa thủ trưởng, vậy cuộc lễ kỉ niệm có được duyệt không ạ?
- Để đó, tôi nghiên cứu đã.
- Nhưng, chỉ còn hai hôm, vừa gửi giấy mời, vừa thuê người vẽ panô, trang trí hội
trường, mời các diễn giả và nghệ sĩ minh họa.
- Thế hả?

66
Những Thiên Đường Mù

Cậu Chính chớp mắt, nâng gọng kính khỏi sống mũi:

- Kể ra thì... cái tay dồ Chiểu này cũng không đáng ngại lắm, Nhưng sao ít nghe tên
ông trên đài, báo? Thơ cách mạng, cứ Tố Hữu ra mà ngâm là yên trí.
- Thưa Thủ Trưởng, Đồ Chiểu là nhà thơ của những năm đầu thế kỷ. Và lịch sử...
- Gượm đã.

Cậu Chính cắt ngang lời chàng trai, đoạn cúi xuống đọc nốt những dòng chữ li ti trên
tấm chương trình tổng hợp. Ánh mắt cậu soi lục qua các dòng chữ. Rồi cậu gục gặc
đầu:

- Theo Đại Việt sử ký toàn thư... tay viết lời bình dẫn cuốn sách này ở đâu ra thế?

Chàng trai đáp:


- Dạ. Đại Việt sử ký toàn thư là...

Cậu bỗng à lên một tiếng thật to, tay vỗ trán đánh đét, rồi nói:
- Nhớ rồi, nhớ rồi. Đại Việt sử ký toàn thư của Lê Quí Đôn. Tay này nổi danh lắm
đấy. Quê ở Thái Bình.

Miệng chàng trai thoạt đầu nhoành ra như sắp cười. Nhưng nửa tích tắc sau thu lại,
biến dạng méo mó như sắp mếu. Mặt anh chàng ngây độn. Anh đứng thẳng lưng,
chằm chằm nhìn thủ trưởng. Lúc ấy, ông cậu tôi cẫn tiếp tục gật gù vì sự uyên bác
của mình. Cậu bảo:

- Thôi được, tôi duyệt.

Cậu gấp tờ chương trình tổng hợp lại, đưa trả cho chàng trai:

- Các cậu bảo nhau mà làm. Nhớ gửi giấy mời ban tuyên huấn các cấp, và các cục,
vụ, viện cho đàng hoàng.
- Vâng ạ... cảm ơn thủ trưởng.

Cháng trai cúi đầu, chào chúng tôi rồi vội vã rút lui. Tôi bảo mẹ tôi:
- Con về đây.

Mẹ tôi cần túi, chào vợ chồng cậu Chính. Lần này, mợ Thành ra tiễn tận cửa, nghĩa là
tận dan gác bằng gỗ sơn màu cánh gián khó coi ấy. Nhưng có điều, mỗi khi gặp
người quen, mợ ta lại vùn vụt đi trước, hoặc cúi xuống móc hòn sỏi lọt vào dép, để
tụt lại phía sau. Tôi không hiểu điều đó. Bởi vì, đấy là lần cuối cùng tôi tới khu nhà
tập thể K. Mẹ tôi ép cách nào, tôi cũng nhất quyết ở nhà. Hơn một năm sau, trong
lúc chuyện trò với cô Vị, mẹ tôi phàn nàn:

- Mợ ấy không muốn đi cạnh tôi. Làm sao vậy? Tôi có ăn trộm, ăn cắp, cướp của,
giết người đâu?

Cô Vị bảo:
- Tôi không lạ gì chuyện ấy. Trại lính mà.

Mẹ tôi ngẩng đầu nhìn cô Vị. Lúc ấy, cả hai người cùng bổ trám để ngâm nước mắm:
- Cô nói thế nghĩa là sao?

Cô Vị đáp:

67
Những Thiên Đường Mù

- Nghĩa là ở đấy người ta sống với nhau theo cách sống của trại lính. Đã là trại lính
thì phải ăn như nhau, mặc như nhau, ở như nhau. Khác nhau tấm áo manh quần đã
chướng mắt. Hơn nhau đồng tiền bát cơm là sinh sự. Tôi bảo chị nhé. Chị cứ sắm
một bộ quần áo y hệt như quần áo của cô em dâu, mặc vào. Tôi bảo đảm cô ta sẽ cư
xử khác. Có sai, cứ đem đầu tôi ra mà chặt.

Mẹ tôi cười. Nhưng ít lâu sau, tôi thấy mẹ mua vải may một bộ quần áo mới, theo
kiểu của cô em dâu thật. Mỗi lần tới khu K mẹ thay bộ quần áo ấy, và từ đó, mẹ tươi
tỉnh nhẹ nhõm hẳn lên.

Lại nói chuyện Tết năm ấy, mẹ tôi mua sắm cho gia đình cậu Chính đã cạn tiền, nên
chỉ thừa vài chiếc bánh chưng với nửa cân giò. 29 tháng Chạp, cô Tâm từ quê lên.
Lần này, bà Đũa gánh theo cô cả một gánh các thức bánh trái, giò, thịt, cam, bưởi,
chuối, hồng xiêm... không thiếu thứ gì. Lại còn lồng gà, có một con gà sống hoa
trắng và tám con gà mái non. Cô bảo:

- Con gà sống hoa này cho mẹ con mày làm lễ cúng giao thừa. Còn đám gà mái chưa
ghẹ ổ để hầm dần cho con cháu Hằng ăn. Năm nay qua tuổi dậy thì rồi, phải chịu
khó ăn uống cho có da có thịt.

Nói xong, cô bước tới bàn thờ, lật tấm lụa trắng phủ ảnh bố tôi xem qua. Rồi cô gọi
bà Đũa về.

- Cô gửi nhà hàng xóm. Phải về ngay nội nhật hôm nay. Hai mẹ con mày không phải
lo cơm nước gì cả. Cô có tiền. Đến đâu ăn quà đó.

Cô ôm tôi vào lòng, vuốt ve, rồi bảo:


- Xem kìa, càng lớn lên càng giống bố mày như đúc. Thật là rau nào sâu nấy, chẳng
lẫn vào đâu.

Cô cúi xuống hít tóc tôi. Cô có thói quen ấy. Rồi cô lật mái tóc lên xem có chất trứng
không.
- Nó giữ tóc sạch đấy. Đừng có phi dê phi bò gì con nhé!
- Vâng ạ.
- Thôi, cô về. Sang giêng viết thư cho cô.
- Thưa cô, vâng.

Tôi nắm áo cô, tiễn cô ra tận phố chính. Cô gọi xích lô chở cô với bà Đũa ra bến xe.
Chiếc khăn len bay phấp phới trong làn bụi mờ. Cô dướn đầu lên, quay lại nhìn tôi.
Tôi cũng nhìn theo cô cho tới lúc xe xuống dốc. Lúc đó tôi trở về nhà, mẹ tôi đang
bày bàn thờ. Tôi biết mẹ tôi có ý chờ cô Tâm lo Tết cho tôi, nên mẹ tôi dồn tiền sắm
sanh cho gia đình cậu Chính. Mẹ nựng tôi:

- Tết nhà mình to ghê. Nhờ lộc của con gái đấy.

Tôi không thể chịu được một giọng nói thiếu tự trong đến như thế. Tôi bỏ đi. Tại sao
mẹ tôi phải cư xử như vậy? Và cậu tôi, và người đàn bà mặt rỗ hoa vợ cậu ấy, cả hai
đứa bé kia nữa, có gì đáng để mẹ phải hạ mình như vậy với tôi? Xích xiềng êm dịu
làm sao? Tiếng anh con trai què lại rống lên thê thiết, trong bầu không gian nhộn
nhạo của phố xá ngày tất niên:

Rồi thu sang lá vàng rơi đầy...

68
Những Thiên Đường Mù

Trong những ngày cuối năm, nhịp sống dồn lên, thúc đẩy, xô lấp như dòng lũ, tiếng
hát kia càng thê thảm làm sao. Một âm thanh đứt đoạn, một tia sáng lóe lên rồi ngút
tắt, một tàn lửa thoi thóp, một âm giai quẫn bách của kiếp người.

69
Những Thiên Đường Mù

Chương 11

Người đàn ông bên cạnh đập vào vai tôi.


- Này cô bé.
Tôi choàng dậy. Tôi vừa chìm vào giấc mộng của những cơn hồi tưởng. Người đồng
hành cười. Những chiếc răng bạc của ông ta lại sáng lên trong bóng tối:
- Không có gì đắp hay sao?
Tôi nhận thấy tôi đã co quắp và rúc vào vai ông ta trên đoạn đường vừa qua. Tôi xấu
hổ, lúng búng xin lỗi. Người đàn ông lắc đầu:
- Không sao, cô bé ạ. Tôi có thể cho cô mượn tấm áo varơi của tôi.
Tôi đáp:
- Cám ơn ông. Tôi có mang khăn theo.
Tôi mở túi, lấy tấm khăn của bà Vêra. Người đồng hành nhún vai, ồ lên một tiếng
thán phục. Bà Vêra nói đúng. Đêm lạnh, và tấm khăn len mênh mông của bà thật là
một cái tổ chim lý tưởng cho chim trú rét. Tôi choàng tấm khăn của người đàn bà cô
đơn thấy hơi ấm tỏa toàn thân. Thật dễ chịu. Tàu vẫn đang chạy. Bên ngoài, cảnh
sắc mờ ảo như một bức tranh của Jôn Oátsten một họa sĩ vô danh tiểu tốt tôi gặp
trên bãi biển Crimê. Jôn Oátsten gốc Anh. Dù đã ở Tây Ban Nha nhiều năm, anh ta
vẫn mang trong mình dòng máu sương mù xứ sở. Tranh của Jôn là những cơn hoang
tưởng trộn lẫn sương mù. Mọi thứ màu sắc của anh đều bị sương mù phủ lên, như
nhựa dính, như nỗi ám ảnh không có cơ suy giảm. Cường độ nỗi ám ảnh sương mùa
càng ngày càng mạnh hơn, điên khùng hơn trong những bức tranh của Jôn. Anh ta
đã cho tôi xem tới trên một ngàn bức sơn dầu
và phấn màu. Với địa chỉ và thời gian ghi dưới các tấm tranh, tôi biết càng ngày, Jôn
Oátsten càng rời xa quê hương, dấn thân vào xứ sở của mặt trời. Nào Angiê, Los
Angeles, Cairô, nào Tân Đêli, Bombay, nào những thành phố mới của Úc Châu cuồng
phóng. Thật lạ, càng xa quê hương, nỗi nhớ quê hương cần ám ảnh. Càng lãng quên
sương mù, sương mù càng trở thành một xúc cảm có tính toàn năng chi phối người
nghệ sĩ. Có lẽ, nếu Jôn đã là danh họa, anh ta sẽ chẳng bao giờ trò chuyện với tôi,
một người con gái bình thường trên bãi biển Crimê ồn ào có hằng hà sa số mỹ nhân.
Nhưng cũng chính vì anh ta chỉ là một họa sĩ vô danh, tôi mới tìm thấy ở anh ta sự
quyết liệt của khát vọng, và nguồn cảm xúc dồi dào, đôi lúc có khuynh hướng bội
phát chỉ có ở đoạn đời trước của con người.
- Tại sao?...
Jôn nhún vai, anh ta nói tiếng Nga tồi, không mạch lạc. Cái mũi tróc da của anh ta
đỏ ửng, nối trên những đám da chưa kịp tróc rám đen. Jôn tới thành phố Crimê để
vẽ. Thuộc loại khách châu Âu không nhiều tiền. Một chàng trai xấu xí và cô độc. Các
cô chiêu đãi viên xinh đẹp nhất, có giá nhất trong các khách sạn và các restaurant
không quan tâm tới anh. Jôn nhắc lại.
- Tại sao cơ? Tôi không hiểu. Đã 12 năm tôi chưa trở về Anh. Gia đình tôi có một
chuyện gì đó không thuộc loại chuyện vui vẻ. Vì thế, tôi cứ đi mãi. Khi nào, nhờ đám
họa sĩ đàn anh, tôi bán được vài bức tranh, thì tôi tích trữ toan, cọ vẽ, và các loại
màu. Sau đó tôi tiêu xài xa xỉ một chút. Nếu không, tôi sống với đồng tiền lợi tức của
tôi.

Anh ta ngừng lại, để đưa chai nước suối lên tu. Suốt một tuần ở bãi bể Crimê, quên
Jôn, tôi chỉ thấy anh ta uống nước khoáng. Sau đó, Jôn lăn cái vỏ chai rỗng lên cát,
và nói tiếp:
- Đã mười hai năm tôi không giáp mặt với sương mù xứ sở, nhưng tôi thấy nó ngày
ngày. Như nó tẩm ướt tóc tôi, như nó phả vào hai lỗ mũi tôi buốt giá, nhưng nó chạm
vào làn da tôi. Sớm nay cũng vậy, khi tôi từ trên giường bước xuống, tôi cũng bước
trong lớp mù sương ấy, lạnh và ẩm ướt, và màu xám nhẹ, như có ai tung lớp bột mịn

70
Những Thiên Đường Mù

trong không gia.

Jôn nhắm mắt lại. Ánh nắng chói như lửa của Crimê chiếu vào mặt anh. Nhưng tôi
biết tất cả những điều Jôn nói là hoàn toàn đúng.
Vâng, đôi khi người ta không lý giải được một ẩn ức ở trong mình. Nó tồn tại bởi một
sức mạnh khác, một sức mạnh vô hình, không thể nắm bắt... Sương mù trong những
bức tranh của Jôn Oátsten khiến tôi nhớ tới cảnh một ao bèo. Thật là một liên tưởng
kì quái. Nhưng có thực. Sao tôi không nhớ tới cánh đồng xanh khoáng đạt, với những
con diều bay lượn trên cao? Sao tôi không nhớ tới đồng lúa chín, với các chân ruộng
bậc thang đậm nhạt pha sắc, vì hình ảnh ấy thanh nhã. Sao tôi không nhớ tới những
thành phố trắng của miền Trung với các bãi biển mơ màng: nào Nha Trang, nào Mỹ
Khê, nào Đại Lãnh... Sao tôi không nhớ tới con đường cheo leo lên Tây Bắc, vào một
ngày xuân, trước khi bước vào trường đại học, tôi đã theo bạn bè tham dự cuộc rong
chơi. Con đường ấy lượn quanh co giữa các vách núi và vực thẳm, tựa sợi dây đàn
căng ra trong cơn hứng khởi trước vẻ đẹp và hiểm nguy. Những rừng ban trắng, ban
tím trùng địp nở, như thánh thần, trong phút quên lãng, đã buông thả bao nhiêu giấc
mộng đẹp cho con người. Biển hoa trắng ngần, tung trên đỉnh núi và rừng cây, như
tuyết đọng. Rồi vào sâu hơn nữa, với những rừng ban tím nhẹ, người ta có cảm giác
mây hoàng hôn quần tụ lại, và choàng trên núi rừng tấm khăn choàng mỏng manh,
lộng lẫy, khiến trái tim con người lo âu, ngột ngạt vì e ngại vẻ đẹp thần tiên kia sẽ
tan biến trong thời khắc.

Nhiều cảnh trí đã ghi dấu quyền uy của cái đẹp. Nhưng không hiểu sao, như Jôn
Oátsten đã nhớ tới sương mù, tôi luôn bị ám ảnh bởi một ao bèo. Một cái ao bèo tầm
thường như bất kì ai trong chúng ta đã từng nhìn thấy, và hờ hững bước qua. Giữa
vùng quê, nơi tiếng còi ôtô hoặc còi tàu hỏa vẳng tới như ảo giác. Nơi mà người đàn
bà trẻ có thể chắp tay lạy đức ông chồng như nô tì lạy chủ nô, và gã có thể lấy đòn
gánh phang vợ vì tội đã trái lời gã, dám cho người bà con vay dăm gánh thóc hoặc
vài nghìn viên gạch. Và những điều đó xảy ra ngay trong thập kỷ 80 này.

Hồi nhỏ, có lần, theo mẹ tôi đến một làng ngoại ô, tôi thấy một bà già ngồi vo gạo
trên cầu ao. Ao rộng, nước trong, góc bên kia, lênh đênh dám bèo Nhật Bản. Trên
đám bèo xanh, xòe những bông hoa tím nhạt. Giống nụ cười bí ẩn của người đàn bà
đẹp trên một gương mặt hứa hẹn niềm yêu. Tôi ngắm mãi.

Bà già vo gạo xong, vỗ rá, rồi khỏa chân rửa. Mặt ao sóng sánh. Đám bèo Nhật Bản
cũng sóng sánh theo, Và những bông hoa tím như thể thẫm lại trong cơn chao đảo.
BÀ già ngẩng lên:
- Mẹ con bác hỏi nhà ai?
Mẹ tôi cười:
- Cháu tới nhà cô Lài. Nhưng con bé thích đám hoa bèo, đòi xem.
Bà già cười:
- Lạ lùng gì thứ hoa bèo cơ chứ.
Sau này, khi trở về quê, tôi nhiều lần đứng ngắm những ao bèo khác. Những chiếc
ao thật sự của vùng quê thật sự. Những chiếc ao tù hãm, mặt nước nổi bọt vì chất
thối rữa, các loại rong tảo nảy nở đến nỗi nước không còn trong và loãng mà trở nên
nhớt nhát như một thứ dầu. Những chiếc ao vây bọc bởi các ngôi nhà chen chúc,
những khu vườn bị phân cắt, những chuồng tiêu hôi thối dưới nắng hè. Mùi bèo, mùi
cỏ dại, mùi đám rong đuôi chó, rong chùm bị phơi héo trên bờ, mùi bùn, mùi ếch
nhái chết. Những con cá cờ bị lũ trẻ ném lên khô cong khô nỏ, vây sạm đen. Và
trong cái khung cảnh ngột ngạt ấy, những cành hoa tím điểm trên nền xanh giống
như một thứ độc dược, một vẻ đẹp của xú uế, sự tô điểm cho một đời sống thiếu
sinh khí, không cởi mở và tăng trưởng. Trời chiều, mặt trời ném xuống các vũng ao

71
Những Thiên Đường Mù

một bát tiết đỏ lòe, nhếnh nhoáng như rượu hòa máu con vật bị đâm chết trong
những ngày đình đám. Và trời lặng gió, không khí như ngưng đọng trong oi ả của
mệt mỏi và đợi chờ. Và tiếng kêu của một con cuốc ném từng nhát vào tĩnh lặng. Và
người ta lắng nghe, lắng nghe, vớt tìm tiếng còi tàu nơi xa. Màu tím đã trở thành ám
ảnh. Niềm vui thơ ấu, nỗi khắc khoái của tuổi thanh niên. Cùng một lúc, nó là hạt
sương sớm trong lành, là độc tố của nỗi sầu không thể cắt nghĩa...

72
Những Thiên Đường Mù

Chương 12

Tàu vào ga. Người đàn ông răng bạc mở túi đi đường lấy ra mấy quả đào. Ông ta
chìa cho tôi một quả.
- Cảm ơn ông.
Tôi cầm quả đào. Đào Bungari. Trái lớn bằng nắm tay đứa trẻ lên mười. Vỏ chím
hồng, thịt ngọt và đặc biệt nhiều nước. Cầm trái đào trên tay đã cơm thèm. Hoa quả
của Bun nhập sang Liên Xô rất nhiều. Nhất là đào và táo. Thứ nào cũng ngon. Khắp
các quầy bán thực phẩm và hoa quả, nếu có hàng nhập của Bun, người ta xếp hàng
dài dằng dặc.
Ông khách đã ăn gần hết trái đào. Ông ta hất hàm bảo tôi:
- Ăn đi chứ, cô bé, ngon lắm.
Tôi gật đầu:
- Vâng, rất ngon.
Tôi cắn một miếng. Nước ngọt tứa đầy miệng. Thật đúng như câu nói: Ngon tỉnh cả
người. Qua ô cửa kính, thấy đám hành khách đang hối hả lên tàu. Trên đường kè xi
măng bóng nhẵn, một cặp trai gái đang hôn nhau. Nụ hôn ly biệt. Mắt người con gái
ướt đẫm. Biệt ly, nổi buồn thiên cổ, nỗi buồn vĩnh hằng của nhân loại. Chẳng cuộc
biệt ly nào nham nhở như những cuộc biệt ly đã diễn ra trên sân bay Nội Bài, xứ sở
của tôi. Cái ngày tôi lên tàu bay rời xứ, chỉ có một người khóc, chắc chắn người ấy sẽ
khóc, nhưng khóc ở một làng quê xa ngắt, bên kia sông. Tôi nhớ người đàn bà ấy,
lòng nhói đau.

Người con trai đứng trên bờ kè xi măng xốc chiếc túi đi đường đeo lưng, rồi lau vệt
nước mắt trên má người yêu. Cô ta nhào tới, ôm chặt anh ta thêm lần nữa. Tóc họ
cùng có màu vàng rơm. Dưới ánh đèn, chúng giống như tơ tằm. Một nụ hôn nữa. Rồi
họ rời nhau. Người con gái đứng lại, bóng đổ xuống sàn xi măng.
Tiếng người con trai từ đầu toa nào đó vang lên.
- Viết thư cho anh nhé.
Người con gái giơ tay vẫy. Rồi cô ta quay đi. Chiếc váy kẻ ô cắt chéo vải đập vào hai
bắp chân tròn trĩnh. Đi được vài chục bước, cô ta quay đầu lại. Gương mặt ướt đẫm.
Vừa lúc, con tàu rời ga.
- Masa... Masa...
Tiếng người con trai ném lại, tan hòa trong gió. Tôi nhìn theo cô gái, cho tới khi nhà
ga mất hút. Con tàu nhanh chóng vượt qua khu ngoại ô để đi tới một vùng đồi thoai
thoải. Trong bóng tối, vẫn có thể nhận ra các vệt thẫm của vườn cây.
- Biệt ly.
Con tàu rú còi. Âm thanh của những cuộc chia ly. Nó khiến tôi nhớ lại sân bay Nội
Bài. Cái sân bay chật chội và nóng nực. Những đoàn người đứng chen chúc trong bầu
không khí oi nóng và ngột ngạt. Nhưng oi nóng và ngột ngạt hơn nữa là tâm trạng
âu lo, khắc khoải của họ trong lúc chờ đợi làm thủ tục hải quan. Những gương mặt
đờ dại, những đám tóc bết mồ hôi, những cặp mắt bồn chồn, nôn nóng, luôn mở to
và căng thẳng nhìn bốn phía như để chờ đợi và chống chọi lại các biến cố, các rủi ro.
Bên ngoài dòng người đông đúc ấy, lại có dòng người đông đúc khác, cũng chen chúc
nhau tới nhễ nhại mồ hôi, bên kia dãy hàng rào bằng sắt đan, cũng hướng những
gương mặt vừa lo âu, vừa khoắc khoải, vừa hồi hộp vào phòng chờ. Đó là đám người
đưa tiễn, thân nhân của những kẻ ra đi. Một khi mọi thủ tục xong xuôi, và dòng
người chuyển động như một hải lưu hỗn tạp và nóng bức qua các khuôn cửa rà soát
vũ khí cuối cùng để ra sân bay, thì trên gương mặt của những người đưa tiễn, người
ta có thể đọc được nỗi vui sướng, tiếng thở dài nhẹ nhõm, niềm hứng khởi của thành
công, nỗi hoan lạc trước một lời hứa hẹn tốt đẹp và sáng sủa của ngày mai. Những

73
Những Thiên Đường Mù

nụ cười viên mãn. Các cung bậc phấn khích tinh thần. Chưa ở nơi đâu, cuộc chia ly
sung sướng một cách thảm thê như thế. Những cuộc chia ly nham nhở. Phép sai số
trong những quay luật vĩnh hằng của con người. Ngày ấy, tôi đứng giữa đám người
chờ làm thủ tục hải quan, vừa lau mồ hôi chảy ròng ròng hai bên thái dương, vừa
nhìn đám người tiễn đưa bên ngoài hàng rào sắt. Mẹ tôi ốm, nằm viện. Cô Tâm giận,
không tới. Biết thế, nhưng tôi vẫn mong chờ nhìn thấy cô. Mong chờ một cách vô
vọng, vì tôi biết rõ ràng, chính lúc ấy cô đang ngồi khóc trong căn nhà rộng thênhh
thang. Căn nhà hiu quạnh ở bên kia sông.

74
Những Thiên Đường Mù

Chương 13

Ngày tôi thi đại học, cô gửi nhà cho bà Đũa cả tuần. Tuần lễ ấy, cô ở nhà nấu nướng,
chăm sóc tôi. Mẹ tôi vẫn đi chợ ngày ngày.
- Người buôn bán, tham buổi chợ, chẳng mấy khi dám nghỉ.
Cô bảo mẹ tôi như thế. Tôi thi xong, cô về quê. Nhưng tuần một lần, cô lại gửi thư
lên thăm kết quả. Mặc dù, đã ba lần tôi nói với cô, phải vài tháng sau mới có thông
báo chính thức. Sự quan tâm, lòng thiết tha của cô khiến tôi lo ngay ngáy. May sao,
tôi đã trúng tuyển. Vừa được tin, ngay hôm sau cô đã có mặt . Lại bà Đũa gánh hoa
quả, bánh trái, gà vịt theo sau. Cô bảo:
- Cho cái Hằng mở tiệc khao bạn bè.
Nói xong, cô mở túi, rút cho tôi một cuộn giấy bạc:
- Còn đây là tiền cho cháu đi chơi. Chơi cho thoải mái đầu óc. Trước khi vào trường
một tuần lễ cô nhắn người đón cháu về quê. Lúc ấy, cô khao họ hàng, làng xóm.
Tôi giãy nảy lên:
- Thôi, cháu chịu thôi. Đỗ đại học đã nên công trạng gì mà làm thế.
Cô nói:
- Cô bảo, phải nghe.
Tôi lắc đầu quầy quậy:
- Không, cháu chịu thôi, cháu chẳng làm thế.
Cô cau mày lại. Gương mặt cô như đen hơn bình thường. Cô nghiên giọng nói:
- Ngày trước, bố mày mới đỗ đíplôm thôi. Cháu là người đầu tiên đậu bằng tú tài
trong dòng họ nhà ta. Có phải chuyện đùa đâu. Hãy nghe cô.
Biết không thể cãi được, tôi đành im lặng. Hôm ấy cô tôi về ngay. Bà Đũa, thu xếp
đồ lề xong, quảy chiếc gánh không đi theo. Tôi nhìn tấm lưng mỏng của cô dưới lớp
áo nâu, cái dáng khô cứng bất thường của người đàn bà không qua kỳ sinh nở, ứa
nước mắt.
Sau khi cùng bàn bè đi chơi, tôi theo chị em cô bạn đi du lịch. Họ là con của một gia
đình cán bộ cao cấp ngành ngoại giao. So với cán bộ cỡ cục vụ trưởng khác, tài chính
phong phú hơn nhiều. Năm ấy, cô bạn tôi cũng đỗ đại học. Cô chị đã đi làm, nhưng
chưa chồng nên xin phép nghỉ hè đi chơi với em. Ba chúng tôi đủ tiền tiêu xài.
Chuyến đó, chúng tôi đã đi khắp vùng biển miền Trung: Nha Trang, Đà Nẵng, Qui
Nhơn, Sau rồi vòng lại Sầm sơn, ra Bãi Cháy. Vẫn chưa hết tiền cô Tân cho, khi đã
vào học rồi, nghỉ Tết Nguyên Đán xong, chúng tôi còn rủ nhau lên Tây Bắc. Và
chuyến đi cuối cùng lại là chuyến đi kỳ thú nhất trong dịp ấy.
Nhưng thôi, hãy trở lại với cô Tâm. Trước ngày tôi vào học mươi hôm, một người đàn
ông ngoại tứ tuần phóng Honda 67 vào tận cửa nhà tôi:
- Đây có phải nhà cô Quế, con tên Hằng không?
Tôi đang ngồi thêu chiếc túi trong nhà. Nghe tiếng hỏi trống không, tôi cắm đầu
thêu, chẳng thèm ngẩng đầu lên.
- Tôi hỏi.
Người đàn ông dóng tiếng to hơn. Ông ta vẫn ngồi trên xe, và chiếc xe Honda đen
trùi trũi, vẫn nổ máy phun ra làn khói hôi xì:
- Tôi hỏi, đây có phải nhà cháu Hằng không?
Bất đắc dĩ, tôi phải ló mặt ra:
- Phải. Ông cần gì?
Người đàn ông nhìn tôi qua cặp kính che nắng màu xanh chai:
- Tôi là người bà Tâm phái lên đây. Xin cô nương chuẩn bị quần áo, tôi đưa về nhà.
Nói xong, ông ta tắt máy, gạt chân chống xuống để dựng xe vào một góc sân. Rồi
không đợi mời, ông vào nhà, ngồi phì phèo hút thuốc. Dáng điềm nhiên của ông,
khiến tôi không còn cách nào khác là thu xếp vài bộ quần áo vào chiếc túi du lịch

75
Những Thiên Đường Mù

nhỏ rồi theo ông ta ra đi. Tôi nói với người đàn ông trước khi lên xe.
- Chú cho cháu qua chợ.
Ông ta đáp gọn ghẽ.
- Sẵn sàng.
Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống sàn, ông cho xe nổ máy. Chiếc xe Honda 67, trong
xấu xí như một con ong ruồi, nhưng đi khá êm. Người đàn ông đưa tôi tới cửa chợ,
rồi vào một quán giải khát gọi cà phê:
- Tôi ở đây. Cô nương cứ chuyện trò thoải mái với bà cụ. Bà Tâm dặn tôi nói với cô
rằng cô phải ở dưới quê ít nhất một tuần.
- Vâng. Chừng 15 phút cháu sẽ quay ra.
Tôi vào chợ, đưa chìa khóa cho mẹ. Lúc ấy, mẹ tôi đang vắng khách. Dãy hàng đồ
khô của mẹ cũng vắng khách. Hai bà ngồi xõa tóc cho con gái nhổ tóc sâu. Bà thứ ba
ngủ gật. Tôi nói với mẹ:
- Con đi nhé.
Mẹ tôi gật đầu:
- Ờ, con đi.
Nói xong, mẹ lại cúi xuống, nhặt những hạt lạc lép trong thúng lạc. Từ ngày tôi được
cô Tâm bảo trợ, và mẹ tôi tìm được những người cần sự bảo trợ của mẹ, mối quan hệ
giữa chúng tôi trở nên nhạt nhẽo. Tôi không ngờ sự thể như vậy. Dù sao, mẹ cũng
vẫn là mẹ của tôi. Tôi im lặng chờ đợi một vài phút rồi hỏi:
- Mẹ không dặn dò gì hay sao?
Mẹ tôi ngẩng đầu lên, mắt thoáng qua ánh ngạc nhiên và có phần mỉa mai:
- Có cô Tâm rồi mà.
Tôi tức nghẹn họng. Nhưng tôi vẫn nói bình thản:
- Con không muốn xa mẹ. Nhưng dù sao, việc cũng phải đi.
Mẹ tôi đáp:
- Con đi đi. Ở dưới ấy chắc người ta mở tiệc mừng to lắm. Mẹ thì chẳng đủ tiền để lo.
Tôi nhìn mẹ:
- Mẹ đừng nói thế. Xưa nay, mẹ con ta vẫn sống với nhau tằng tiệm, có cần tiền bạc
gì đâu.
Mẹ không ngẩng lên nhìn tôi, đáp nhạt nhẽo:
- Ờ... mẹ biết thế. Nhưng xưa khác, nay khác.
Những hạt lạc lép lọt qua kẽ tay mẹ rơi xuống chiếc rổ nhựa con. Mắt mẹ tôi chăm
chăm nhìn xuống thúng lạc, vẻ như không còn muốn tiếp tục chuyện trò nữa. Vẻ mặt
mẹ điềm tĩnh, có phần lạnh lùng. Vẻ mặt của người đàn bà tự chủ. Khác hẳn với mẹ
trong những lần cùng tôi đến nhà cậu Chính. Vậy là, tôi cầu xin tình yêu của mẹ, còn
mẹ lại cầu xin sự đoái hoài của những người họ Đỗ. Trò đuổi bắt quái gở và vô lý. Tôi
nuốt cơn nghẹn ngào:
- Con đi đây. Mẹ nhớ giữ gìn sức khỏe.
- Ờ, con đi.
Người đàn ông ngồi trong quán cà phê đang tán tỉnh một thiếu phụ đẫy đà, mặt tròn
tóc xoăn tít. Trông chị ta mũm mĩm như con búp bê. Thấy tôi vào, ông ta ngẩng lên:
- Ô, nhanh thế à? Tôi chưa uống hết cốc cà phê.
Tôi nói:
- Xong rồi.
Ông ta bảo:
- Cô uống cái gì nhé?
Tôi đáp:
- Cám ơn. Cháu không khát.
Nhanh nhẹn, người đàn ông dốc tuốt ly cà phê vào họng rồi đứng lên:
- Bao nhiêu đây bà chủ?
Ông ta móc từ túi quần sau ra một chiếc ví da đen cũ bẩn, nhưng bù lại, nó có rất
nhiều ngăn và rất nhiều tiền. Toàn những xếp bạc lớn. Người thiếu phụ mũm mĩm

76
Những Thiên Đường Mù

liếc mắt nhìn:


- Ái chà, ông anh sộp ghê.
Người đàn ông nhoành mồm cười:
- Cũng kha khá, bà chị ạ. Hẹn lần sau lên chơi. Giờ tôi phải làm nhiệm vụ.
Nói đoạn, ông ta quay lại tôi:
- Mời cô nương lên xe.
Tôi vừa thấy ông ta vui tính vừa khó chịu vì vẻ nhăng nháo nhà quê đó. Chờ ông ta
quay xe, nổ máy, tôi mới ngồi lên. Người đàn ông sửa lại cặp kính màu xanh chai rồi
đưa tay chào thiếu phụ. Chiếc xe lao vụt về phía trước. Tôi ngồi sau tấm lưng lực
lưỡng của ông ta, chịu đựng một thứ mùi hôi nhờm gớm cùa mồ hôi dầu, mùi hôi
nách thượng thặng, trộn lẫn mùi nước hoa nội địa hăng xè. Cái thứ mùi hỗn hợp ấy
không thể nào gọi tên được. Suốt chặng đường dài, tôi không mở miệng vì phải
chống đỡ cái mùi khó ngửi đó một cách quyết liệt. Người đàn ông, thoạt đầu còn
hăng hái trò chuyện. Sau thấy tôi toàn đáp lại bằng những tiếng ưm, hừm... đành
thôi. Chắc ông ta ghét tôi vì ông ta thuộc loại người vui tính, thích chuyện trò.

Dầu sao tôi cũng đã cố gắng để không xảy ra một cuộc va chạm nào đáng tiếc. Khi
người đàn ông đưa tôi tới trước cổng nhà cô Tâm, ông ta gọi tướng lên, giọng oang
oang:
- Này, bà chủ ơi. Bà chủ ơi, ra mở cửa. Sứ giả về rồi đây.
Không phải bà Đũa mà đích thân cô tôi ra mở cửa. Có tiếng cô cười hỉ hả phía sau
cánh cửa gỗ:
- Nhanh quá nhỉ. Tôi cứ nghĩ tối sẫm hai chú cháu mới về.
Tiếng then lách cách, rồi hai cánh cửa mở toang. Cô tôi ôm lấy tôi:
- Ối dào ơi.
Cô cất tiếng kêu vô nghĩa. Tôi bất giác bật cười:
- Cô khỏe không cô?
- Khỏe lắm. Mong con suốt ngày.
Đoạn, quay sang người đàn ông đeo kính xanh, cô bảo:
- Cậu vào chơi.
Ông ta lắc đầu:
- Thôi, xin kiếu bà chị. Em phải về nhà trình diện không con hổ cái lồng lên. Thế là
bà chị hài lòng nhé.
Cô tôi gật đầu:
- Vâng, cám ơn cậu.
Người đàn ông nhe răng cười, chìa tay cho tôi:
- Chào cô nương.
Bắt tay tôi xong, ông ta co chân đạp khởi động máy một cách hùng dũng rồi phóng
xe đi. Tôi ngạc nhiên nhìn theo, hỏi cô:
- Sao cô không mời chú ấy vào uống nước?
Cô tôi đáp:
- Thôi, vào nhà đi con.
Đóng cổng rồi cô mới nói tiếp:
- Cậu ta có vợ lẽ ở cách đây non 20 cây số. Cô vợ cả ghen lồng ghen lộn, có bữa dội
cả thùng dầu hỏa vào người dọa tự thiêu. Để cho nó về.
Cô xách túi cho tôi. Rồi hai cô cháu vào nhà. Đồng hồ treo tường thong thả điểm hai
tiếng. Trên phản, có mâm cơm đậy lồng bàn. Tôi hỏi:
- Cô vẫn đợi cơm con hay sao?
Cô tôi gật đầu:
- Ờ, không thấy đói. Sáng dậy cô ăn khoai sọ luộc chấm vừng. Rồi uống hai ấm chè
ướp ngâu, bụng dạ lưng lửng chẳng ra đói chẳng ra no. Giờ con về thì cô thấy đói. Đi
rửa mặt mũi rồi hai cô cháu ăn cơm.
Cô lại theo tôi ra tận giếng, cầm chiếc khăn mặt bông mới. Thứ khăn nhập ngoại.

77
Những Thiên Đường Mù

Trên nền bông trắng, in một chùm hoa lyla tím. Tôi thả chiếc khăn vào thau đồng,
trong lớp nước tinh khiết của giếng khơi, lòng êm dịu. Nước mát, rửa sạch bụi bám.
Thật hạnh phúc khi biết ở cuối chặng đường dài, có người chờ đợi ta, với tấm khăn
trắng, và chậu nước tinh khiết. Trời oi, thỉnh thoảng, tiếng chim vườn lại thả vào
không trung. Bóng râm đã bò tới hàng gạch thứ ba ở dưới hiên.
Cô Tân bảo:
- Nào, ta ăn cơm.
Cô thong thả mở lồng bàn. Tôi reo lên, trên mâm có món canh tôi thích nhất. Hoa
thiên lý nấu, không phải với giò sống mà là cua đồng lẫn trứng cáy nghiền. Những
tầng gạch vàng rộm nổi trên mặt nước, với những đám hoa lý bị luộc hín, ngả sang
trong suốt. Cô còn rán món chả xương sông với vài bìa đậu sống chần nước sôi chấm
tương. Tôi ăn ngon lành. Cô sung sướng, chốc chốc lại chống đũa nhìn tôi. Tôi ăn gần
xong bữa mà cô vẫn chưa qua bát thứ 2. Cô ăn rất ít. Dường như cô thưởng thức tôi
ăn hơn là thưởng thức các món ăn. Xong bữa, chúng tôi tráng miệng bằng hai bát
chè sen, cô tôi nấu lấy, với sen trần hầm nhừ và bột sắm dây. Không có vani nhưng
nhiều sen nên nước rất thơm. Cô bỏ mâm xuống bếp, lau phản cho tôi nằm. Tôi hỏi
cô:
- Bà Đũa đâu ạ?
Cô bảo:
- Bà ấy đi mời người làm tối nay.
Nói đoạn, cô đưa cho tôi chiếc gối nhỏ bọc vải trắng thêu, còn cô gối gối mây:
- Nào, cô cháu ta tềnh tang.
Tôi nằm xuống tấm phản gụ bóng nhẵn, mát như thạch, ngủ liền. Lúc thức giấc,
chiều chạng vạng. Có tiếng kêu eng éc chói tai của một con lợn bị chọc tiết. Hai cánh
cửa chính đóng kín, khiến căn nhà tối om. Ngoài sân, có ánh đèn. Tôi ngồi trên phản,
nghe tiếng lợn kêu hộc lên, rồi những tiếng kêu rời rạc tắt dần, người ta đã chọc tiết
xong con vật xấu số.
- Thôi, tao đã bảo thôi, hứng sang chậu sành.
Tiếng một người đàn ông, nghe thô lỗ. Ngừng một lát, lại vẫn tiếng ông ta:
- Đã nhớ chưa? Lần sau cứ thế mà làm. Tham một tí là tiết canh chẳng ra gì.
Một thiếu niên đáp lời:
- Con nhớ rồi.
Hóa ra một ông đồ tể luyện nghề cho con trai.
- Múc nước sôi ra sân mau lên.
- Có ngay đâu. Liệu bao nhiêu thì pha xong?
- Hai mươi phút là cùng. Cánh bên ấy cứ lau cối rửa chày di. Tay tôi pha thịt chỉ một
nhoáng.
- Được rồi. Để tôi bảo đám đàn bà băm hành răm đã. Xong việc, ta làm cỗ lòng rõ
ngon.
- Rõ ngon. Lại như hôm giỗ cụ Toái ấy chứ? Nguyên cả mùi phân.
- Ông này thù dai thật. Hôm ấy tôi say, tôi để cho anh em thằng Cựu làm giúp. Mà
nhà chúng nó ăn mắm mút ròi quen, ai lạ gì?
Tiếng nói qua lại vang dãy sân. Tôi khẽ hé cánh cửa, nhìn ra. Chính giữa sân, trên
chiếc đòn sứ men xanh, cây đèn măng sông cháy rừng rực. Ánh sáng chói chang của
nó rọi tới tân hàng cau, vướt qua bức tường hoa, soi từng vòm lá cam um tùm. Trên
sân, phía bên trái, gần cửa bếp, một người đàn ông đang đưa dao cạo lông lợn xoèn
xoẹt. Một thiếu niên trạc 17, 18 để ria mép con kiến, rất đẹp trai đang cầm gáo dội
nước sôi. Nước dội tới đâu, lưỡi dao của người đàn ông đưa tới đó, và lượt lông lợn
đen tuột đi, phơi làn da trắng. Gần nơi bố con người đồ tể làm lông lợn, đã kê sẵn
một tấm ván gỗ nhẵn nhụi, chờ pha thịt. Hai người đàn bà đang ngồi băm một mớ
hành và rau thơm, chắc để làm món dồi. Sau lưng họ, bà Đũa ngồi xát mẻ lạc rang.
Bên phải sân, hai người đàn ông khác đang lau chày cối. Thứ chày cối vĩ đại, lần đầu
tôi nhìn thấy. Chày cao quá đầu tôi và chiếc cối đá cũng ước chừng non tám tấc. Rõ

78
Những Thiên Đường Mù

ràng, họ đã phải mượn các đồ dùng này ờ nhà những gia đình chuyên làm giò chả
hoặc những đại gia đình thường xuyên phải lo những bữa cúng giỗ hàng trăm khách.
Quang cảnh thật tấp nập, nhưng rất trật tự. Và dường như đám người đang hoạt
động náo nhiệt kia chịu sự chi phối chung của một người chỉ huy tối cao, đầy uy lực.
Mãi rồi tôi mới nhìn thấy người ấy. Bà cô tôi ngồi ngay sát cửa, trên một bậc tam
cấp, khuất lấp trong bóng tối chậu cây đinh lăng. Cô ngồi vót tăm. Đầu cúi xuống,
tay đưa con dao bổ cau đều đặn, cô không ngẩng đầu lên, không để mắt tới bất cứ
công việc gì. Nhưng rõ ràng, cái guồng máy đang cử động kia chịu sự điều hành nhẹ
nhàng, và đầy uy thế của cô.
- Uỵch...
Ông đồ tể ném con lợn đã mổ xuống tấm phản gỗ. Xong, đứng ngay ngắn phía cuối
tấm ván, ông gọi:
- Dao, mày.
Chàng thiếu niên đẹp trai ngoan ngoãn mang tới các loại dao cần thiết cho ông bố.
Người đàn ông lấy mu bàn tay đẩy hai ống tay áo lên, cuộc pha thịt bắt đầu. Trước
hết, ông ta cắm cây xiên vào chính giữa cái bụng mổ banh của con vật. Rồi, giơ con
dao pha lưỡi vuông lên: “Phập.” Nhát dao thật ngọt, chính xác, chẻ giữa sống lưng
con lợn. Nhát thứ 2, thứ 3... Không nhát nào chệch, trong nháy mắt con lợn bị phanh
làm hai mảnh, đều đặn hơn tất cả mọi cán cân công lý. Rồi ông ta ngẩng lên:
- Nong. Rải tao mảnh nilông.
Tức khắc, hai người đàn ông có nhiệm vụ giã giò chả lăn tới chiếc nong, ngả cạnh
tấm phản pha thịt. Chàng thiếu niên đẹp trai có hàng ria con kiến rút tấm nilông
trong chiếc bị cói đem theo, rũ đánh “roạt” rồi rải lên. Ông đồ thể ném một nửa con
lợn vào nong, xoay ngang nửa còn lại, bắt đầu dùng tới con dao khác. Một trong hai
người đàn ông đứng bên cạnh trầm trồ:
- Nhanh thật. Thịt còn bốc khói.
Người đàn ông đáp gọn lỏn:
- Thịt nóng hôi hổi mới giã được giò ngon. Thịt nguội mà giã giò, chỉ có đem cho cửa
hàng mậu dịch.
Nói xong câu đó, ông ta đã lọc được một tảng thịt to tướng.
- Vào cối đi.
Lại buông ta một mệnh lệnh, dõng dạc không kém mệnh lệnh của các nguyên soái.
Hai người đàn ông đón tảng thịt cũng nhanh nhẹn như những thủ môn siêu việt của
sân bóng đá thế giới, bắt bóng, chạy sang sân bên kia.
- Nhớ nước mắm tiêu chưa?
Ông đồ tể vừa tiếp tục pha thịt, vừa ném sang lời nhắc nhở rất nghiêmngặt, một
trong hai người giã giò đáp:
- Đủ hết rồi.
Sau đó là tiếng chày thì thụp.
Trước cửa bếp, đám đàn bà đã băm xong hành và rau thơm, bắt đầu trộn tiết để
nhồi. Họ đụng chậu, đụng nồi, vui vẻ lắm. Và những câu chuyện rì rầm của họ, về
đồng áng, về ông chủ tịch xã với bà trưởng cửa hàng, về cô con dâu nọ đánh nhau
với mẹ chồng bị đuổi khỏi nhà, cắp nón với hai bộ quần áo ra đi... giống như tiếng
nước chảy qua miệng cống.
Trời tối hẳn. Xung quanh, mọi nhà đã ăn xong bữa cơm chiều, im hơi lặng tiếng, Chỉ
thỉnh thoảng có con chó ăng ẳng sủa người đi đường. Tối hôm đó, lần đầu tiên tôi
cảm nhận được bầu không khí u tịch nơi thôn dã. Nó thật vô định, nhưng bền vững
khủng khiếp. Như làn nước thâm u của quá vãng, nó trôi chảy, lãnh đạm ù lì, trơn
tuột qua những kẽ tay nắm bắt của con người. Giống như nước, nó mềm mại, uốn
lượn, nhưng sẽ làm chết ngạt một cách dễ dàng những kẻ không biết bơi. Và ánh
mặt trời chói chang nhất, cũng chỉ hâm nóng được làn nước mỏng bên trên, và cơn
dông tố mãnh liệt nhất cũng chỉ cày xới lớp sóng bên trên. Cô tôi vẫn ngồi vót tăm
trong bóng cây đinh lăng, không nhúc nhích rời chỗ. Mái đầu nhỏ nhắn, đôi vai nhọn

79
Những Thiên Đường Mù

nhô lên. Tôi nhìn cô, chợt hiểu: người đàn bà đó, người ruột thịt của tôi cũng như
bầu không khí u tịch kia đã hòa nhập thành một toàn thể. Cái toàn thể ấy ngự trị
trong tôi, nơi cỗi rễ, nơi máu huyết, vừa gần gũi nhưng vừa cách xa, vừa đem lại nỗi
êm dịu vừa trói buộc tôi trong nghiệt ngã và đau đớn. Tuy nhiên, đó hoàn toàn là
những tiên cảm rất mơ hồ.
Dường như linh cảm được, cô vội quay lại:
- Hằng dậy rồi phải không?
Vẫn đứng sau cánh cửa, tôi đáp:
- Vâng ạ.
Cô bảo:
- Ra đây chơi, chờ lòng và cháo chín.
Tôi đáp:
- Con không đói.
- Ờ, chắc con cũng chẳng thích gì món cháo lòng. Thế thì lại ngủ nữa đi. Mai cô gọi
dậy sớm.
Sớm hôm sau 4 giờ rưỡi, tôi tỉnh giấc. Như thế cũng đã ngủ bù cho cả tuần lễ trước
mải xem phim và đánh tú lơ khơ với lũ bạn cùng phố. Chiếc gối may của cô tôi vẫn
đặt sát tường, không suy suyển. Suốt đêm, cô không ngủ. Tôi bước ra sân. Trời vừa
sáng. Cây đèn măngsông vẫn còn đặt trên chiếc đôn sứ men xanh. Nhưng đám người
làm đêm qua không còn ai. Chiếc chày gỗ đã rửa sạch sẽ chống bên tường hoa.
Chiếc cối đá lăn ngiêng cạnh đó. Tấm phản gỗ vừa cọ rửa, còn ướt nước kê sát tường
bếp. Tấm nong cũng đã lăn đi. Sát giếng, ba chiếc rổ xề lớn đựng các loại thịt đã
pha. Hai thúng cỡ đại đựng giò vừa vớt. Một làn hơi mỏng bay lên: chắc chắn giò hãy
còn nóng. Bên kia bức tường hoa, gần gốc cau đầu tiên, còn bếp tro kê bằng viên đá
lớn. Than chưa tàn hết, chốc lát lóe lửa. Cô tôi đang cọ rửa vết tiết đọng trên sân.
Thấy tôi, cô ngẩng lên:
- Sao con dậy sớm thế?
Cô hoàn toàn tỉnh táo, nhanh nhẹn, không có vẻ gì biểu hiện là đã thức đêm qua. Tôi
hỏi:
- Sao cô không ngủ đi một lát?
Cô cười, răng không còn trắng bóng nhưng vẫn đều tăm tắp:
- Ăn thua gì! Ngày mùa, cô có thể thức liền năm bảy đêm. Con rửa mặt rồi vào nhà
ăn sáng.
Thấy tôi còn chần chừ đi vòng quanh sân, cô bảo:
- Mau lên con, lát nữa thợ nấu cỗ đến đây, chẳng còn rảnh rang đâu.
Nghe lời cô, tôi đi đánh răng. Lúc vào bếp lấy muối, tôi thấy bà Đũa ngủ lăn trên
chiếc chõng tre kê sát tường, không còn đủ kiên nhẫn để đi đến chiếc giường riêng
của bà, vẫn kê ở nhà phụ. Thấy tôi nhìn bà ta, cô Tâm cười:
- Thế đấy, người ta đến chết cũng không đổi thay được tính nết. Hễ khát, là nước
ruộng cũng vục nón xuống múc uống. Hễ đói, cơm thiu cũng và lấy và để, hết cả bát
mới ngửng mặt lên. Đụng cơn buồn ngủ là gốc cây, vệ đường cũng lăn đùng ra ngủ.
Hồi cô còn nhỏ, bà ấy đã có cả một đứa con trai. Ông chồng người Thổ Cao Bằng, lưu
lạc về xuôi. Ông ta làm thợ mộc, đóng tủ thuê cho vợ chồng cụ Nhiễu. Thấy cô con
gái xinh xắn, béo tốt đem lòng yêu. Vợ chồng cụ Nhiễu gả tắp. Còn đứng lên lo cưới.
Ông chồng ở rể luôn. Bà ấy tốt nái, ngay năm đầu đã đẻ được đứa con trai. Núc ních
như hòn bột. Ông chồng Thổ yêu lắm đi làm thì chớ, về tới nhà lại bế ẵm nựng nịu
con. Thế mà rồi vài năm sau, ông ta cũng không chịu được. Trần đời mới có một
người đàn bà đoảng như thế. Đụng tới bát mắm, bát mắm đổ, Đụng vào vại dưa, vại
dưa khú. Người ta trồng lau ra mía. Bà ta trồng củ tía ra củ nâu. Năm đứa con bẩy
tuổi, ông chồng dắt đi mất tích. Bố mẹ già chết, không dựa được vào ai, bà ta bán
sạch nhà đi mà ăn. Đang từ chỗ có cơ nghiệp thành trắng tay đi ở đợ.
- Bà ấy họ hàng thế nào với nhà ta ạ?
- Ông bà Nhiễu gọi bà nội con là chị họ. Chị em con dì, con già cách ba đời. Hồi cải

80
Những Thiên Đường Mù

cách, cũng được bầu vào nông hội đấy. Sau làng nước thấy không được việc gì nên
lại cho ra. Mấy năm làm hợp tác, không đủ bảo đảm ngày công, sông lơ lắt, manh
quần tấm áo cũng đi xin. Có mảnh vườn đất phần trăm trồng toàn rau môn thục.
Cuối năm kìa, thấy bà ta túng thiếu, dẹo dọ quá, cô nghĩ gần nghĩ xa, dù giọt máu
pha trăm bát nước cũng còn hơn nước ao nước hồ, cô gọi về đây.
Bà Đũa vẫn ngủ say như chết, thỉnh thoảng lại ngáy khò khè. Tiếng ngáy của bà hệt
như tiếng ngáy của đàn ông. Cô tôi bảo:
- Thôi, ra đánh răng, kệ cho bà ấy ngủ. Hễ ngủ không đẫy giấc đang ngồi đun bếp bà
ấy cũng ngã dụi vào đống than.
Ngoài sân, trời sáng trắng. Hương cau thoang thoảng, mát lạnh. Như mùi thơm có
hơi ẩm của sương đêm. Chích choè hót lảnh lót ngoài bụi tre đầu ngõ. Cô tôi đã
chuẩn bị cho tôi ăn sáng: Xôi trắng với chả ống. Chả ống gần giống như thứ chả nạc,
nhưng người ta pha nhiều tiêu, quế và quấn quanh các ống vầu lớn mà nướng trên
than. Gắp miếng chả lên rất nhẹ, thơm. Miếng chả uống cong rồi lại bật ra, dai như
cao su vì thịt rất tươi, quết kỹ trong cói, lại pha thêm chút ít hàn the. Ở Hà Nội, cả
những thanh chả quế nổi tiếng cũng không tìm được thứ chả ngon thế. Như mọi bận,
cô tôi ăn rấy ít, rồi chống đũa ngắm tôi ăn.
Chúng tôi vừa ăn cơm xong, chưa kịp uống nước đã nghe tiếng gọi ơi ới ngoài cổng:
- Bà Tâm ơi... Ới bà Tâm.
Cô bảo:
- Họ đến đấy. Cháu dọn bát đũa lại cho cô.
Rồi cô ra mở cổng. Ba người đàm bà cũng trạc ngoại tứ tuần bước vào. Họ ăn mặc
gần như cô tôi: Quần lụa đen, áo cánh. Tóc búi hoặc kẹp thả sau lưng. Lớp phụ nữ
nông thôn sau này không vấn khăn nữa. Các bà đon đả hỏi:
- Chúng tôi có đến sớm quá không bà?
Cô Tâm cười:
- Không đâu. Vừa rạng đông. Mời các chị lên nhà.
Cả ba người đàn bà cùng bước qua bậc tam cấp, vào gian bên trái. Tôi đã kịp dọn
xong bát đũa. Các bà xếp thúng mủng vào chân tường. Mỗi bà đem theo một thúng
nhỏ, kiểu thúng đựng đồ lễ. Rồi họ ngồi lên sập. Cô tôi tự tay bưng lên một mâm đầy
xôi, chả. Một chồng bát sứ trắng với đũa mun. Một đĩa chuối tiêu chín:
- Xin mời các chị ăn sáng rồi giúp cho.
Các bà xoa tay:
- Úi dào, bà chủ cho ăn sáng sang quá. Nào, các chị. Thiên hạ thì tiền chủ hậu
khách. Còn bà Tâm thì tiền khách hậu chủ, các chị lên đũa lên bát cho vui.
Họ mời mọc nhau xong, quay lại hỏi cô tôi:
- Cỗ trưa hay cỗ chiều đây bà chủ?
Cô tôi đáp:
- Cả trưa, cả chiều, phải ăn hai đợt mới hết khách.
- Mấy đĩa, mấy bát?
- Năm đĩa, năm bát.
- Làm gì mà gớm thế?
- Các chị dấn lên cho. Lần đâu tiên dòng họ Trần nhà tôi có con cháu Hằng đỗ tú tài.
- Bà cô như bà, nước Nam này có một thôi đấy. Nào kể đi.
- Vâng, xin phép các chị. Mỗi mâm xin cho năm đĩa: một giò lụa, một giò pha, một
chả ống, một chạo nem, một thịt luộc. Còn năm bát là: một bát măng, một bát càri.
Thịt, giò, xương đã đủ. Riêng bát hầm và bát càri, tôi đã nhốt sẵn lồng gà. Thức ăn
tráng niệng bữa trưa thì xin cho nồi chè đỗ xanh. Còn buổi chiều, các chị lo cho vài
đõ xôi gấc.
Một bà bảo:
- To gấp ba lần cỗ cưới nhà người ta đấy. Thảo nào, mới bảnh mắt đã nghe con vợ
thằng cha Đường hỏi chồng: Tôi nay anh đi ăn cỗ nhà bà Tâm phải không?
Nghe tới đó, người đàn bà thấp bé, có vết bớt trên má quay sang, giật giọng hỏi cô

81
Những Thiên Đường Mù

Tâm:
- Chị mời lão Đường đấy à?
Cô tôi đáp:
-Vâng, cả đám chức sắc trong làng, tôi mời hết. Chị sợ tốn kém hay sao?
Người đàn bà có vết bớt trên má đáp:
- Không. Nhưng lão Đường đang định cướp mảnh vườn xóm Trại của chị cả tôi. Bà ấy
thân cô thế cô, chồng chết bệnh, con liệt sĩ chống Mỹ, giờ còn vườn hồng nuôi thân,
lão định cuỗm nốt.
Bà bên cạnh nói:
- Thằng cha ấy vừa gả chồng cho đứa con gái lớn. Nó muốn cướp mảnh vườn xóm
Trại để làm nhà cho con ở riêng.
Người đàn bà có vết bớt trên má nói tiếp:
- Chị tôi đang đâm đơn kiện trên huyện. Chẳng hiểu có ăn thua gì hay lại kiện củ
khoai. Nhưng tôi không thể bưng mâm rót nước cho cái thằng cướp ngày ấy.
Nói xong bà ta cúi đầu xuống. Cô Tâm tôi thong thả đáp:
- Tôi biết rõ mọi chuyện. Chị cứ yên tâm. Không phải áy náy gì.
Nói đoạn, cô tôi bước ra ngoài hiên, cất tiếng gọi:
- Bà Đũa ơ... đã dậy được chưa?
Người đàn bà có vết bớt trên má ngẩng lên, gương mặt đã trở lại bình thản. Họ tiếp
tục ăn sáng. Tôi nhìn theo cô Tâm, không hiểu trong đôi vai lép kẹp kia ẩn chứa sức
mạnh nào mà khiến cho những người khác tin cậy và tuân thủ một cách lạ lùng như
thế?

82
Những Thiên Đường Mù

Chương 14

Từ lúc ấy, tôi ngong ngóng chờ buổi tối. Chờ sự xuất hiện của cái nhân vật có tên là:
thằng cha Đường phó chủ tịch. Buổi trưa, họ mạc tới kìn kìn. Hết mâm này tới mâm
khác. Tôi đóng vai trò của một con rối, mặc dù là con rối danh giá. Bất cứ ông chú,
bà bác, rồi các thím, các cô, các dì, các già, các chị, các anh... xa gần nào được cô
Tâm giới thiệu tôi đều phải tươi tỉnh chào. Trên môi, luôn thường trực một nụ cười
giao đãi. Thế mới biết, nghề chiêu đãi viên cực nhọc. Cười cho đủ số lượng cần thiết
trong một giờ cũng khổ không kém phải rặn ra những tiếng khóc hờ cho một đám
ma có nhiệm vụ khóc. Tôi không ăn được miếng gì, mệt phờ. Ba giờ chiều, tôi húp
nửa bát chè đỗ xanh rồi trốn sang nhà hàng xóm ngủ nhờ. Sẩm tối, cô Tâm cho bà
Đũa sang gọi.

Tôi về nhà. Cây đèn măngsông đã được thắp sáng. Lần này, nó không đặt trên chiếc
đôn sứ men xanh mà treo trên xà dọc. Ánh sáng trắng lóa khắp mấy gian nhà, khắp
sân, vướt qua tường hoa tới dãu cau. Cả trong nhà lẫn ngoài sân đều la kiệt các bàn
cỗ. May thay họ đã ăn gần xong. Tôi theo cô Tâm ra mắt khi các mâm chè đã được
bưng lên, thay thế cho cỗ mặn. Và các đĩa xôi gấc đỏ rói đang dược chiếu cố rất mặn
mồng:
- Xôi gấc thế này là hết ý đấy.
- Vâng, chẳng đám nhà ai nấu được thứ xôi gấc như hôm nay.
- Khó gì đâu, cứ nhiều đỗ xanh, nhiều đường, nhiều mỡ là khắc ngon.
- Đừng nói láo. Có một tạ đỗ với đường vào tay nhà bà cũng thành cháo khê. Có nhớ
hồi đi công trường bà cho chúng tôi ăn xôi bánh đúc hay không? Dạo ấy bà còn đang
xuân mà tôi cũng là trai tơ hơ hớ.
- Rõ đồ khỉ gió nhà ông.
- Ông ấy nói đúng đấy, xôi ngon tốn công lắm. Gạo nếp vo xong để cho ráo nước.
Không khô phải lấy khăn mặt bông mà xoa. Gạo trăm hạt rời cả trăm mới trộn gấc.
Mà gấc cũng phải chọn thứ gấc nếp, gai thưa, ruột dầy, màu thắm như son. Nạo ruột
xong, bóp lẫn ruợu ngon mùi thơm mới dậy. Hết phần gạo, lo tới phần đỗ. Đỗ xanh
đãi sạch vỏ, vẩy kiệt nước mới trộn muối. Rồi chõ đồ chỉ dùng được loại rộng miệng,
kín vung. Nồi nước đáy không được đầy, hơi phì lên, ướt gạo là xôi nhạt. Ố dào trăm
thứ công mới ra được miếng ăn ngon.
Cô tôi dẫn tôi len lách qua các dãy người. Người nào người nấy mặt đỏ gay, cười nói
tưng từng vui vẻ. Từ sân vào nhà, tôi phải trả lời không biết bao nhiêu lần những câu
hỏi giống nhau. Đại loại như:
- Cháu mười mất tuổi rồi? Mười tám cơ à?
- Học đại học gì? À... đại học tổng hợp văn? Thế học ra rồi làm nghề gì? Có được
ngang chức trưởng phòng huyện hay không?
Tới trước đám người ngồi trên chiếc sập gụ, cô tôi nói:
- Cháu Hằng nhà tôi đây.
Cả đám người ồ ề nói gì tôi không nghe rõ. Tôi cúi chào lia lịa, miệng mấp máy cho
phải phép. Rồi cô tôi rẽ rọt giới thiệu:
- Đây là ông Đường, phó chủ tịch xã. Cháu chào ông đi.
Tôi cúi đầu:
- Chào ông ạ.
Hình như ông chỉ hơn cô tôi có vài ba tuổi. Ông ta gật gù:
- Ờ ờ...
Cái miệng hơi méo nhếch sang một bên. Tôi chỉ chờ có vậy, liền ngầng mặt lên, bắt
chuyện:
- Ông làm ở xã lâu chưa ạ?

83
Những Thiên Đường Mù

- Cũng khá... ờ ờ...


Tới đó, tôi không tìm được câu nào để hỏi thêm. Tuy nhiên, chỉ trong khoảng thời
gian ngắn ngủi ấy, tôi cũng đã kịp quan sát. Đó là một người đàn ông thấp, to
ngang. Mặt không ra tròn cũng không ra vuông.đỏ như mắc chứng xung huyết. Cặp
mắt lẩn dưới hai mí dày mỡ. Mũi ông ta ngắn, có vết sẹo chém ngang cánh mũi phải.
Một cái miệng dẩu ra như thổi lửa, môi đỏ một cách bất thường, trông không đẹp mà
rờn rợn. Ông ta nhìn cô Tâm, tươi cười:
- Bây giờ mới thấy bà chủ. Bà chủ ngồi xuống ăn với anh em chúng tôi một hòn xôi,
uống với anh em chúng tôi một hớp ruợu chứ. Thời đại chúng ta là thờii đại duy vật
mà.
Nói xong, ông ta tự thưởng công bằng cách rinh rích cười. Cô tôi đáp:
- Cảm ơn ông . Tôi ăn mỗi mâm mỗi miếng cũng no. Mời các ông tự nhiên cho.
Ông phó chủ tịch ngả người, nắm cánh tay cô Tâm:
- Không ăn bà chủ cũng cứ ngồi đây. Lát nữa tôi có việc phải nhờ cậy bà chủ đấy
nhé.
Cô Tâm đáp nhẹ nhàng:
- Vâng. Ông phó chủ tịch sai gì mà chúng tôi chẳng phải làm?
Người đàn ông dãy lên đây đẩy:
- Ấy chết, bà nói thế có kẻ nghe thấy là khổ tôi. Họ không biết chuyện đùa mà tưởng
là chuyện thật.
Cô Tâm vẫn cười:
- Gớm, sao ông phó chủ tịch lo xa như vậy?
Ông ta lắc đầu:
- Không lo xa sao được hả bà? Thời này, người ta hại nhau như bỡn.
Cô Tâm vẫn cười cười:
- Thế à? Tôi chẳng mấy khi tới nới hội họp, tôi không biết. Ai dám hại ông phó chủ
tịch thế?
Ông ta cũng cười, gượng gạo:
- Có, có chứ. Nhưng bà biết mà làm gì, cho nó nặng đầu óc ra.
Rồi nheo mắt, ông ta nhìn cô Tâm có vẻ thân mến:
- Cứ như bà bây giờ là sướng nhất làng. Cửa cao nhà rộng, thóc đầy bịch, tiền đầy
túi. Tháng ngày thanh thản, lời nặng tiếng nhẹ chẳng đến tai.
Cô Tâm vẫn cười:
- Ra tôi sướng thế ư? Thế mà tôi chẳng biết. Kìa, các ông uống rượu nữa đi chứ! Hãy
còn quá nửa chai.
Ba bốn người cùng giơ tay:
- Thôi thôi, cơm no ruợu say rồi bà chủ ạ.
Cô Tâm gọi:
- Dưới nhà có ai rảnh giúp tôi cái mâm.
Có tiếng:
- Dạ.
Rồi một người đàn bà to béo nhưng nhanh nhẹn lên, dọn mâm bát đi. Chắc bà ta mới
tới buồi chiều, vì tôi không biết mặt. Cô tôi thong thả mang phích nước, ấm chén lại:
- Chè tôi ướp ngâu lấy, các ông uống thử xem.
Phó chủ tịch cười bả lả:
- Bà làm cái gì mà mà chả nhất làng này!
Cô Tâm lại cười:
- Chết nỗi, ông phó chủ tịch cho tôi đi tàu bay giấy.
Rồi cô chăm chú rót nước. Lúc ấy, tôi mới để mắt tới cái góc chéo, đối diện với gian
nhà tôi đang ngồi. Góc ấy, khuất lấp sau cánh cửa, có một người ngồi bó gối. Ấy là
người đàn bà có vết bớp trên má. Bà ta, xong nhiệm vụ đầu bếp, đã tới đó, ngồi lặng
lẽ trong bóng tối, giương đôi mắt âm thầm lên. Cô tôi vẫn tươi cười chuyên trà mời
khách. Phó chủ tịch Đường gật gù:

84
Những Thiên Đường Mù

- Ngon quá là ngon. Bà dạy tôi ướp chè nhà. Tôi bảo nhà tôi trồng lấy vài bụi ngâu.
- Chết nỗi, ông quá lời. Sao mà tôi dám dạy ông?
Ông ta hăng hái:
- Không khách khí gì đâu. Tôi nói thật, thật trăm phần trăm bà Tâm ạ.
- Cái thời này con người đểu cáng lắm, tử tế thì ít mà ba que xỏ lá thì nhiều.
Cô Tâm cười:
- Chết nỗi ông lại quá lời. Tôi thấy người làng ta nhũn như chi chi ấy chứ? Chả thế
ông sai quân bắt trói nhà Sâm không giấy má gì mà nó vẫn chịu.
Phó chủ tịch gật đầu:
- Đúng. Nó chống lại nghị quyết của chi bộ, tôi không gông cổ nó vào nhà ngục là
may.
Cô Tâm vẫn cười cười:
- Theo luật pháp, bắt người phải có lệnh. Nhà Sâm không trộm cắp, không buôn
thuốc phiện lậu, không chứa chấp kẻ gian. Nó chỉ mắc tội chửi bí thư chi bộ xã và
chửi ông. Không có giấy lệnh nó cũng chìa cho các ông trói, thế nghĩa là dân làng
này đệ nhất hiền lành, ông chẳng nên trách họ ba que xỏ lá.
Ông ta cau mày, nói gay gắt:
- Bà bảo những trường hợp cứng đầu cứng cổ như thế, tôi không xử trí nhanh thì còn
gì là kỷ cương nữa? Hôm nay nó chửi bí thư chi bộ huyện, rồi ngày kia là... là...
Tới đó, ông ta ngừng lại, giơ bàn tay chém một nhát vào không khí rồi dằn giọng:
- Chính quyền phải chuyên chính. Không chuyên chính là không được. Từ xưa tới
nay, nhà nước nào cũng phải có phép tắc, kỷ cương.
Cô Tâm vẫn cười:
- Rước các ông xơi chè. Thuốc đây ạ. Tôi nhờ người quen mua được thứ Du Lịch còn
mới.
Đoạn, quay lại phó chủ tịch Đường, cô nhẹ nhàng nói tiếp:
- Tôi không được học chính trị, tôi không hiểu phép tắc, kỷ cương của nhà nước ra
sao. Nhưng hồi nhỏ, thầy tôi còn sống, thầy tôi có kể cho tôi nghe chuyện này. Nếu
các ông cho phép, tôi xin kể hầu các ông.
Mấy người đàn ông nhao nhao đáp:
- Kể đi, bà kể đi.
- Khoan đã, cho tôi vô phép rít điếu thuốc lào. Lâu lắm mới có dịp rảnh rỗi thế này.
Một ông khách nạp thuốc, châm lửa, rít ro ro. Rồi ngửa mặt lên, nhả khói. Trong
khoảng thời gian ấy, cô Tâm đợi chờ, vẻ mặt bình thản. Mấy đám người chơi tú lơ
khơ và tổ tôm ngoài sân đã bỏ cuộc vào hiên, hóng chuyện. Trong góc tối bên kia,
không chì là người đàn bà nhỏ thó có vết bớt trên mặt mà cả một đám đàn bà con
gái túm tụm ngồi.
Sau khi đã nhả khói một cách mãn nguyện, ông khách già ngồi bên cô Tâm nói:
- Nào, bà kể đi.
Cô Tâm đặt chén trà xuống, cất tiếng:
- Thầy tôi kể rằng: Dưới triều vua Tự Đức có một ông quan Thượng Thư liêm chính
lắm. Ông quê ở Thái Bình, dân thường gọi là cụ Thượng Chính. Vua Tự Đức đã phải
có câu đối đề tặng:
Nam phi Bình bất chính.
Bắc phi Chính bất bình.
Hồi tham triều, cụ Thượng đứng ra làm một công trình thủy lợi lớn. Công trình này
đem nước tưới cho đồng ruộng khắp vùng. Con kênh đào đi qua ba huyện. Trong ba
huyện đó, có huyện quê cụ. Các ông biết rồi, đất đào thủy lợi xưa chạy vào ruộng
nhà nào, nhà ấy phải chịu. Không nghiêm, những địa chủ giàu sẽ dẫn hối vàng bạc
để con kênh đi xéo qua ruộng nhà khác. Những nhà nghèo, thấp cổ bé họng chẳng
biết cầu cứu vào đâu. Cụ Thượng Đính suy ngẫm tìm ra cách thức công bằng nhất
khi thực hành việc đào kênh. Đêm tối, cụ cho lính đốt đuốc, rọi theo ánh lửa mà kẻ
đường thẳng trên mặt ruộng. Hai hàng lính cầm đuốc đứng hai bên. Người chỉ huy

85
Những Thiên Đường Mù

điều chỉnh các cột lửa sao cho chúng thành hai đường song song từ đầu tới cuối. Cứ
theo vệt lửa làm mốc mà đào. Tàn lửa đuốc này thắp lửa khác. Không chủ ruộng nào
dám kêu ca. Con kênh thẳng thư kẻ mực Tàu, cứ thế dài ra mãi.Tới phần huyện quê
nhà, quan chức sở tại bảo rằng theo đường kẻ của dòng kênh, đám đất sắp bị đào
chính là mảnh ruộng có phần mộ tổ tiên cụ. Họ xin cụ Thượng hủy lệ, cho con kênh
vòng sang hướng khác. Cụ Thượng Chính bảo:
- Ta biết xót phần mộ tổ tiên ta, vậy những kẻ khác không biết xót hài cốt cha ông
họ hay sao? Lệ đã định, cứ thế mà làm.
Đám quan chức dưới quyền chỉ biết cúi đầu tuân thủ. Khi đào tới phần mộ của cụ tổ
ba đời cụ Thượng, nước phun ra đỏ như máu. Những toán lính đang đào, hoảng sợ
nhảy lên, chạy về dinh phi báo. Lại một lần nữa, cụ Thượng ra lệnh:
- Không được làm rối kỷ cương đất nước.
Quan quân rập đầu lạy tạ, tiếp tục đào kênh. Con kênh ấy hoàn thành, chảy suốt
qua ba huyện. Khắp vùng no ấm. Người ta đã đặt cả đồng dao, cả tích chèo về nó.
Hồi ông tôi và thầy tôi còn sống, chẳng mấy người là không biết chuyện này.

Cô tôi ngừng lại một vài giây, rồi cười:


- Đấy, các ông tính xem, những ông thượng thư thời nay, đếm được bao nhiêu người
như cụ Thượng Chính?
Đám người ngồi trong nhà ồn lên, Họ xuýt xoa, bình phẩm. Người lên tiếng trước
tiên, là ông phó chủ tịch:
- Ghê thật, các cụ nhà ta ghê thật.
Nhưng tiếng ông ta chìm đi giữa những tiếng xôn xao:
- Quan như thế mới là quan chứ!
- Chuyện nghe như Đông Chu Liệt Quốc ấy. Dân ta thiếu gì người quân tử đâu?
- Bà Tâm nhớ dai thật. Tôi cũng đã nghe chuyện này mấy lần mà quên biến đi mất.
Hồi ông cụ nhà tôi với cụ bên ấy đánh cờ, tôi chuyên đứng chầu rìa, xem chơi. Năm
ấy, hình như tôi chín, mười tuổi. Bà Tâmn tuổi gì nhỉ? À, tuổi Hợi, vậy thì tôi hơn bà
hai tuổi.
Cô Tâm rót nước uống, rồi nói tiếp:
- Thầy u đẻ ra tôi, chẳng được tích sự gì, ngoài cái nét nhớ dai. Dạo ấy, thầy tôi còn
kể nhiều chuyện nữa. Trong đó, tôi nhớ nhất chuyện quan huyện Trần Bình.
- Hay quá, hay quá, kể đi dì Tâm.
- Hôm nay thế mà thú vị. Vừa được chén, vừa được nghe chuyện.
- Trời phật ban lộc cho ta.
Ông khách già ngồi bên cô tôi lại cười khà khà:
- Ấy, gượm đã, cho tôi làm mồi thuốc.
Bọn đàn bà ngồi trong góc tối nhao nhao phản đối:
- Thôi thôi, bác Tâm kể đi. Kệ ông ấy.
- Rõ cái nhà ông này, về nhà mà bắt bà ấy chờ.
Lại có giọng đàn ông hòa giải:
- Thôi mà, sao các bà nóng tính thế! Chờ ông ấy một tẹo đã sao?
Nói thế thôi, nhưng người ta vẫn an lòng chờ cho ông khách nghiện rít hết điếu
thuốc, và nhả khói một cách thư thả. Tới đó, cô Tâm lại cất giọng kể:
- Thời cụ Thượng Chính về hưu, an nghỉ tại quê nội là phủ Tiên Hưng. Phủ Tiên Hưng
giáp huyện Duyên Hà. Dạo ấy tên quan huyện Duyên Hà là Trần Bình đi đón bố về
làng, cả đám lính hầu đi theo, trống rong, cờ mở, tán lọng nghêng ngang. Bên đường
có hai tên lính lệ khiêng một người nào đó trong chiếc võng xoàng xĩnh, trên đòn
nghiêng vắt chiếc chiếu che nắng. Chiếu đã cũ ải. Tên lính dẹp đường của Trần Bình
thấy vậy ngứa mắt chạy lên:
- Dẹp, dẹp mau.
Hai người lính khiêng cáng vẫn bước từ tốn. Tên lính huyện thấy vậy lấy roi quất vào
chiếc chiếu tre.

86
Những Thiên Đường Mù

- Nghe lệnh chưa? Dẹp cho quan lớn đi, dẹp...


Những cọng cói rụng xuống. Bên trong, một cụ già nằm yên, chiếc quạt lụa phủ lên
mặt che nắng. Tên lý trưởng sở tại nghi hoặc giật mình ghé vào tai Trần Bình nói
nhỏ:
- Bẩm quan lớn, hình như cụ Thượng nằm trên võng.
Trần Bình tái mặt, vội quát bọn lính dẹp hết cờ quạt, võng lọng, còn chính hắn nhảy
xuống đường, quỳ lạy. Nhưng chiếc võng gai cũ kỹ vẫn lướt qua.
Nghe đâu, sau đó tên quan huyện hống hách đã tới nhà cụ Thượng lễ tạ tội “Nghi
thức lộng hành.” Cụ Thượng ra lệnh cho lính rút vồ nọc nện hắn hai vồ. Tới vồ thứ 3,
người con cả của cụ chạy ra quỳ lạy cha, xin tha tội cho hắn. Người con cả của cụ
Thượng Chính là ông cử Ái, một người hiếu đễ, tốt bụng, học khá. Ông đã đỗ cử
nhân, được nhà vua vời ra làm quan, nhưng cụ Thượng Chính đã bác bỏ việc tiến cử
con trai mình. Cụ bảo vợ:
- Thằng này tốt bụng nhưng gàn, để cho nó làm quan là hại dân...
Cụ bà nghe ra, không dám than thở nửa lời. Ông Cử Ái tuân lời cha, ở nhà dạy học,
tham gia việc nông tang, không màng danh lợi.
Lại nói về tên quan huyện Trần Bình. Thầy tôi kể không biết bao nhiêu chuyện về
hắn. Đại để, chuyện hắn xui dân lành kiện tụng để có dịp moi tiền, khiến cả hai bên
khuynh gia bại sản. Nào là chuyện hắn ám hại kẻ khác. Nhưng lâu quá tôi không nhớ
rõ. Riêng chuyện quan huyện vời hát xẩm, là tôi nhớ như in.

Cô tôi dừng lại, rót nước uống. Cả đám cử tọa im phăng phắc, chờ đợi. Mắt họ dán
như dính vào gương mặt hao gầy, có vẻ đẹp úa tàn. Cô tôi, không nhìn ai, rẽ ràng kể
tiếp:
- Trần Bình có một ông bố mù và đứa con trai duy nhất cũng mù. Hắn dán yết thị
trước cửa công đường: “Ai chữa cho ông thân sinh và công tử của quan huyện khỏi
bệnh, sẽ có thưởng lớn.” Yết thị dán được nửa năm, mới có một thầy lang dưới thành
Nam lên xin chữa bệnh cho nhà quan huyện. Ông lang này chưa phải danh y, nhưng
là người tài cao học rộng biết đủ nho, y, lý, số. Ông cho bố và con trai Trần Bình
uống non hai chục thang thuốc, bệnh đã đỡ hẳn. Từ chỗ mù hoàn toàn, cả hai người
đã nhìn thấy mọi vật. Ông bố tên quan huyện bảo hắn:
- Tao trông thấy hai thằng Bình.
Còn đứa con trai độc nhất của hắn, cũng thế. Người ta bảo nó ngồi trong buồng tối,
không cho ánh sánh bên ngoài lọt vào, cũng không thắp đèn, để thằng bé không thể
nhận biết vật gì. Rồi, chính Trần Bình cầm cây nến, mở cửa vào phòng. Thằng bé reo
lên:
- Con nhìn thấy hai bố Bình, hai cây nến...
Tên quan huyện tủm tỉm cười, không nói gì thêm. Sáng hôm sau hắn đưa cho thầy
lang một đồng bạc, để thầy tiếp tục đi lấy thuốc ở thành Nam. Ông thầy thành thực,
không nghi hoặc. Tới cửa hàng thuốc, mới vỡ lẽ là đồng bạc giả. Thầy lang trở về,
thưa với gia chủ:
- Bẩm quan lớn, con không lấy được thuốc cho cụ với công tử. Dưới thành Nam,
người ta chê đồng bạc ngày hôm qua là bạc giả.
Trần Bình cười nhạt:
- Thầy nói thế nào? Tôi là quan, người lo việc nước là lại chứa bạc giả trong nhà hay
sao?
Nói xong, hắn chắp tay sau lưng, lững thững vào buồng. Ông Trần Bình thầy lang
ngớ người, quay về nghĩ ngợi. Càng nghĩ càng toát mồ hôi. Ông biết Trần Bình bày
kế quỵt tiền công. Quyền lực trong tay, hắn khép tội chứa bạc giả ông có chạy lên
rừng cũng không thoát hình ngục. Ba giờ sáng hôm sau, ông thày thu xếp áo quần,
khăn gói. Chờ bọn gia nhân mở công sau cho tá điền đi làm ông thày cũng lẻn đi
luôn. Trước khi rời huyện, ông ta chạy ra chợ. Ở chợ, có một gia đình xẩm sống dưới
mài lều chúa. Người ta gọi như vậy vì mái lều được cất lên làm phúc, cho những kẻ

87
Những Thiên Đường Mù

nhỡ độ đường trú thân. Một ông xẩm già, hai vợ chồng xẩm với đứa con trai lên bảy.
Tất cả đều mù. Tất cả đều có giọng hát đủ kiếm miếng cơm độ nhật. Mới mờ sương,
nhà xẩm đang lục đục trở dậy luộc khoai ăn sáng. Ông thầy lang tới gọi:
- Này, quan huyện sai tôi tới gọi cả nhà cụ tới công đường. Hôm nay, có ngày lễ lớn.
Quan muốn nghe hát xẩm.
Ông xẩm già mừng quá, run lập cập:
- Thật phúc đức quá, có thật không thầy?
Ông lang bảo:
Tôi là gia nhân của quan huyện. Quan sai tới gọi nhà cụ sớm để lo sắp đặt ăn uống,
rồi ôn luyện bài vở cho chu đáo. Hôm nay, có các quan khách tỉnh bên sang chơi.
Cả ông xẩm già, cả vợ chồng nhà xẩm cúi rạp đậu cảm tạ:
- Nhà con xin đội ơn thầy. Cuối giờ mão, chúng con sẽ có mặt tại cổng công đường,
không dám sai.
Thày lang chào cả gia đình nhà xẩm rồi ra bến xe, chuồn thẳng.
Lại nói tới nhà xẩm. Nào ông nội, nào cháu đích tôn, vào vợ chồng xẩm ra công mà
ôn luyện bài vở. Nấu khoai ăn xong, tất ta tất tưởi, dắt nhau tới ôcng đường. Đám
lính gác cản lại, gia đình xẩm kêu la ầm ĩ.
Trong dinh, Trần Bình thức giấc, nghe ồn ào, sai người ra hỏi. Người nhà bẩm có đám
hát xẩm chờ trước cửa công đường, bảo là gia nhân của quan huyện ra chợ gọi họ từ
sớm. Hôm nay quan huyện có lễ, rước khách các tỉnh sang chơi, muốn nghe hát
xẩm. Trần Bình hỏi thầy lang, ông ta đã không cánh mà bay. Hắn biết ông lang chơi
xỏ, sai lính phóng khắp nơi tìm. Nhưng thầy lang có phép tàng hình đã biến mất. Chỉ
khổ cho ông cháu, cha con nhà xẩm, bị Bình sai tụi lính giã cho một trận đòn, rồi
tống ra cửa.
Ông thày lang thành Nam đi mất, nhưng lời nguyền của ông ta với Trần Bình đã
thành sự thực. Bạ cắt thuốc, chẳng bao lâu bố hắn, con trai hắn mù trở lại. Bảy năm
sau, hắn cũng mù nốt. Đi đâu cũng phải có người dắt. Riêng đánh tổ tôm, chả cần ai
nhắc, hắn vẫn đọc vanh vách tên các quân bài. Nhưng cảnh ông mù, cha mù, con
mù... tam đại mù đã trở thành câu chuyện truyền khẩu cho nhân gian. Thầy tôi bảo
Trần Bình không có ham thú nào hơn thú kiếm tiền. Các đời quan trị nhậm địa
phương, có người tốt, có người xấu, nhưng ngay cả những người xấu nhất cũng
không ai đạt tới mức độ tàn bạo và vô liêm sỉ như hắn. Sau, người ta đem hắn đối
với một ông quan thanh liêm đời trước, tên là Phạm Thụ. Câu đối như thế này...
Phạm Thụ hữu tồn, dân hữu khố
Trần Bình bất khứ, hộ vô mao...

Đám cử tọa nhếnh mắt lên, vừa nghe vừa nhìn miệng cô tôi. Khi cô đọc xong vế đối,
đám đàn ông ồ lên. Người cười, người vỗ đùi bồm bộp. Đám dàn bà, có người cười
rúc rích, có người ngơ ngác nhìn quanh. Rồi một thiếu phụ vẻ bạo dạn, cất tiếng:
- Mọi người cười gì thế?
Người ta vẫn ồn ào tán chuyện không ai trả lời chị. Chị nhắc lại lần thứ 2, cao giọng
hơn:
- Câu đối ấy nghĩa thế nào? Các ông phải giảng giải cho bọn đàn bà chúng tôi chứ?
Ông khách nghiện thuốc lào đang ngửa mặt lên trời há miệng phô hai hàm rắng đen
xì khói thuốc mà cười. Thấy thế, ông đáp lời:
- Này nhé, nghe cho rõ: Phạm Thụ hữu tồn, dân hữu khố. Nghĩa là quan Phạm Thụ
còn trị nhậm, dân còn khố mà mặc. Trần Bình bất khứ, hộ vô mao. Nghĩa là: quan
Trần Bình chưa đi, thì... đến cái con ba ba nhà các chị cũng chẳng còn râu...
- Úi giời ơi.
Đám đàn bà con gái rú lên, người nọ đám người kia thùm thụp. Họ cười, cười ngặt
nghẽo, cười giàn giụa nước mắt, cười ré từng hồi, nức từng cơn:

- Ối cha mẹ ơi, phải gió cái nhà ông này.

88
Những Thiên Đường Mù

- Có nhà bà phải gió ấy. Không biết, người ta giảng cho. Đã chẳng cảm ơn lại còn nói
láo.
Đám đàn ông gật gù, liếc nhìn nhau:
- Giỏi thật, giỏi thật... Thật là tuyệt.
- Mấy ông đồ nho thâm thúy. Chịu các ông.
Trong khóe mắt, trong nụ cười của họ, dù ồn ào hay thầm kín, đều hàm chứa những
ẩn ý. Tôi lại đưa mắt về phía bóng tối đồi diện với mình. Người đàn bà có vết bớt trên
má vẫn ngồi lọ thỏm trong đám phụ nữ. Nhưng đôi mắt sâu của bà ánh lên như hai
hòm than. Nóng và dữ dằn. Tôi không quên được đôi mắt ấy. Giữa đám người ồn ào
cười nói, tôi thấy ông phó chủ tịch Đường cũng cười. Chiếc miệng thổi lửa hơi lệch
của ông ta nhếch lên, phô những chiếc răng nhỏ. Hai gò má ông ta sạm đi, không
còn giữ được màu đỏ ban đầu.
Rồi như không chịu được không khí ấy, ông giơ đồng hồ đeo tay lên xem, cao giọng:
- Nào bà chủ còn gì cho ăn uống nữa không?
Cô Tâm vẫn cười tươi:
- Ông phó chủ tịch muốn ăn uống gì, tôi vẫn còn đủ sức phục vụ ạ.
Ông Đường cười:
- Đùa thôi. Có cỗ yến bây giờ cũng lèn vào đâu được. Thôi, tôi về bà chủ nhé.
Cô Tâm nói:
- Lúc nãy ông có bảo rằng...
Ông ta gật đầu:
- Tôi nhớ... tôi nhớ rồi.
Rồi đưa mắt liếc quanh, ông hạ giọng:
- Thôi để khi khác.
Cô tôi cười, giọng gạn gùng:
- Có gì khúc mắc đâu mà phải để khi khác. Ông cứ nói luôn cho xong.
Ông phó chủ tịch hơi cúi đầu, vẻ như ngại ngần, rồi ông ta nói:
- Tôi vừa cho cháu lớn ra ở riêng. Nghe bà chủ có nghề, lại vẫn giữ được bộ máy ép
miến, muốn phiền bà cho cháu học.
Cô Tâm vẫn cười:
- Không khó gì chuyện ấy. Chẳng cứ con ông phó chủ tịch, con ai tôi cũng giúp được.
Chỉ ngại nỗi là việc làm miến trông tưởng nhàn nhưng còn mất sức hơm làm ruộng.
Cô bên nhà xưa nay có lấm chân lấm tay đâu. Hồi còn ăn công điểm, cô ấy làm trong
đội tuyên truyền văn nghệ. Sau lên tỉnh học. Từ thời khoán việc đến nay, ông bà vẫn
phải nuôi không.

Hai gò má ông phó chủ tịch lại đỏ rực lên. Ông ta gật đầu:
- Phải, phải, nhưng kỳ này tôi nhất quyết tống cổ nó ra ở riêng. Tay làm hàm nhai,
đó no kệ xác.
Những tiếng cuối cùng, ông ta vội vã đến nuốt cả lời. Rồi giơ đồng hồ lên xem lần
thứ 2, ông bảo:
- Gay quá, thế mà đã gần 10 giờ rồi. Tôi còn phải họp một lát. Thôi chào cả nhà nhé.
Lác đác, có tiếng chào lại:
- Vâng, chào ông.
- Chào ông.
Tấm thân đậm, thấp của ông ta lách rất nhanhqua đám người. Ánh đèn pin quét lóe
ngoài sân, rồi tiến ra ngõ. Cô Tâm tôi nói với ra:
- Ngoài ấy có ai mở cổng cho ông phó chủ tịch không?
- Tôi đây.
Giọng bà Đũa đáp lại. Ngoài cổng, có tiếng chó sủa. Rồi mỗi lúc, tiếng chó sủa mỗi
xa hơn. Trong nhà, tiếng cười đùa ồn ĩ:
- Hôm nay có đứa bị trát gio vào mặt nhé. Thật ác giả ác báo.
- Này, nói thế mà nghe được. Làng này mới chỉ có ác giả, đã làm gì có ác báo?

89
Những Thiên Đường Mù

- Rõ ông thật hàm hồ. Còn thế nào nữa hở ông?


- Bà mới thật hàm hồ, bà tưởng nghe vài câu chuyện thế là mọi việc sẽ đâu vào đâu
vào đấy sao? Loại người đã xoay thừ bữa chén xoay đi thì làm gì còn liêm sỉ. Lại
quyền hành, dấu má nắm trong tay. Rồi mà xem, nhà chị Hài đố có thoát!...
- Chị ấy đang kiện trên huyện. Chẳng nhẽ giữa thời buổi này, lại thanh thiên bạch
nhật.
- Tôi với bà cược nhé!
- Ờ thì cược. Cái gì nào?
- Ít thôi. Một cổ lòng ngon với ba lít rượu. Đích thứ ruơu gạo nhà ông cả Từu đấy
nhé.
- Thôi. Cám ơn bà chủ, được bưas no ruột no cả lòng. Các ông cá bà, về đi thôi. Cho
khổ chủ còn dọn dẹp.
Mọi người lần lượt ra về. Cô Tâm tôi bê chồng thúng không của các bà đầu bếp lên
phản, chuẩn bị cho mỗi người một phần cỗ. Một đĩa xôi gấc, một khoánh giò nạc,
một mảnh chả ống, chừng ba lạng thịt luộc, dăm quả chuối tiêu. Mỗi phần được bọc
gói cẩn thận bằng lá chuối tươi hơ lửa, đặt vào thúng. Các bà bưng thúng quà, trông
như đi lễ chùa về. Người đàn bà có bết bớt trên mặt nói:
- Đội ơn chị Tâm. Đáng lẽ tôi còn phải đem lễ tạ chị.
Cô tôi bảo:
- Có gì đâu. Lòng vả cũng như lòng sung. Chị Hài bị bức hại, ít nhất cũng nửa dân
làng đau ruột. Thôi, chị đem phần cỗ về cho các cháu.
Cô tôi tiễn các bà đầu bếp ra ngõ. Đám người giúp việc đã dọn dẹp gọn gàng. Người
nào nhận phần xôi thịt của người nấy, lũ lượt kéo về luôn/ Cô Tâm chào người này,
trò chuyện hỏi han người kia, dịu dàng và kiên nhẫn. Dáng người bé nhỏ, lưng mỏng,
vai mỏng, lại mặc quần áo thẫm màu, trông xa cô như đứa bé gái. Lúc cô tiễn khách
cuối cùng, đóng cổng rồi quay vào, đã quá nửa đêm. Trời mát lạnh. Sương xuống,
thấm ướt hàng hiên. Cô thở dài khoan khoái, kéo tôi ngồi xuống bậc tam cấp:
- Thế nào, có mệt không con?
Tôi nói:
- Cô mệt hơn nhiều. Cháu có đụng tay vào việc gì đâu?
Cô cười:
- Con chẳng phải mó tay vào việc gì hết. Còn cô, cô đã quen.
Nói xong, cô bóp chặt tay tôi. Tôi không muốn nói gì thêm, để nguyên bàn tay mình
trong bàn tay nhỏ bé xơ xác của cô. Từ lớp da thịt ấm nóng và thô nháp ấy, truyền
sang tôi niềm yêu thương dịu nhẹ. Chúng tôi ngồi như thế, giờ lâu. Trăng hạ tuần
nhô khỏi vườn cam, đính một mảnh ngọc xanh xao, trên bóng tối dày đặc của vòm
lá.

90
Những Thiên Đường Mù

Chương 15

Tàu đỗ lại đột ngột khiến người đàn ông răng bạc và tôi cũng bật ngửa về phía sau.
Nó chạy thêm vài chục thước nữa, rồi dừng hẳn lại. Ga mới đứng sừng sững dưới ánh
đèn. Ga này vắng khách. Trên đường kè xi măng, chỉ có dăm người đủng đỉnh lên
tàu. Những chiếc vali nhỏ nơi tay họ giống như hộp đựng đồ hóa trang của diễn viên.
Ga không lớn, nhưng kiểu kiến trúc nặng nề. Chúng giống những tảng đá xếp xô
lệch, chồng chất lên nhau. Và những cây cột đèn đứng thành hàng đều đặn trên
khoảng sân rộng, trông trơ trọi, chẳng ăn nhập vào đâu. Tuyến đường này, tôi đã đi
vài lần. Tên các nhà ga, tôi không nhớ hết. Những cái tên Nga, dài lòng thòng, trúc
trắc đối nghịch tâm hồn giản dị của họ. Nhưng bù vào đó, địa thế và kiến trúc các
nhà ga, tôi nhớ như in. Ga này xấu xí. Không hiểu vì sao, cứ nhìn thấy nó tôi đã có
cảm giác nặng nề, u uất. Dường như những dáng thô lậu, thiếu hài hòa ấy hăm dọa
con người, đem cho họ những dự cảm không may mắn.

Tàu dừng ở ga khá lâu, có lẽ do bảng điều phối chung của ngành đường sắt. Trong
khoảng thời gian chờ đợi, tôi móc trong túi được một nắm kẹo. “Chìa khóa vàng.” Tôi
mời khách đồng hành. Ông ta cười váng lên:
- Răng tôi sắp hỏng hết rồi. Kẹo là kẻ thù số một đấy.
Tôi nhí nhách bóc kẹo, mong cho con tàu nhanh nhanh rời ga.

Rồi cũng tới lúc tàu rời ga thật. Những khối đen nặng nề từ từ trôi về phía sau. Cả
các cột đèn trơ trọi, với những bình thủy tinh chụp hình trái anh đào lộn ngược. Cả
cái bồn hoa hẹp và dài, chạy dọc theo kè xi măng, rùm ròa loài cây gai đầy hoa nở.
Người đàn ông mở sổ ra xem, và nói:
- Còn ba ga nữa thôi. Khoảng một giờ bốn mươi phút nữa ta sẽ tới Mátxcơva.
Tôi đáp,
- Vâng.
Ông ta hỏi,
- Có người chờ cô ở đấy chứ?
Tôi lúng búng đáp,
- Không biết. Có thể có.
Ông khách liếc nhìn tôi, rồi nhún vai:
- Một con chuột nhắt như thế này mà không có ai ra đón ư?
Tôi mỉm cười, thay cho câu trả lời. Còn ông ta rung đùi nhìn tôi, mắt nheo lại đầy
hoài nghi. Lúc ấy, có tiếng mở cửa. Hai gã trai trẻ bước vào. Một gã cao to, lưng gấu,
tóc vàng. Gã kia tóc đen, lông mày đen, ria mép đen, kiểu như người xứ Grudia. Toa
tàu tràn ngập mùi rượu. Người đàn ông ngồi bên tôi ngả người ra phía sau, duỗi dài
đôi cẳng chân. Rồi ông ta đưa mắt nhìn hai gã trai trẻ. Ngược lại, hai gã không nhìn
ông ta mà nhìn tôi:
- A...
Gã tóc đen cất tiếng reo rồi xô tới:
- Mày có quần bò mốc không? Tao mua.
Tôi lắc đầu,
- Không có.
Dường như gã không nghe tôi trả lời, gã cao giọng nhắc lại lần thứ hai.
- Quần bò mốc, quần bò hoa. Tao mua cho.
Tôi đáp lại, to tiếng hơn.
- Không có.
Gã tóc vàng, lưng gấu cúi đầu xuống:
- Tao trả 130 rúp, bán đi. Ở Mátxcơva chúng nó mua rẻ hơn. Chỉ 115 rúp thôi.

91
Những Thiên Đường Mù

Tôi đáp,
- Tôi đã bảo là tôi không có.
Gã tóc đen cau mày, hàng ria mép đen đụng đậy,
- Mày không muốn bán cho chúng tao, phải không?
Gã móc túi, chìa ra một nắm bạc,
- Chúng tao không ăn cắp, chúng tao trả tiền. Nhìn đây.
Hơi rượu phả vào tận mũi tôi. Tôi thấy óc não bắt đầu quay cuồng, hai thái dương
nóng rừng rực.
- Tôi đã bảo là tôi không có. Mấy người điên hay sao?
Mắt gã trai tóc đen long lên, tức giận. Gã nhét tiền vào túi, tiến lên một bước, đứng
chặn ngay trước mặt người đàn ông răng bạc. Rồi gã xỉa ngón tay vào trán tôi:
- Mày không chịu bán, phải không? Tụi Việt Nam chúng mày không bán, còn ai bán.
Lần trước, một con bé giống mày bán cho tao chiếc áo phông tồi. Đem về nhà, em
gái tao mặc. Một lần, đã rách hết đường chỉ. Ở đường phố Áccbát ấy, biết không, chỉ
có chúng mày và tụi digan bán hàng rong.

Nước mắt và muối cùng lúc tràn lên che kín mắt tôi. Người đàn ông răng bạc đứng
lên, làm gì đó, hình như túm cổ gã trai. Tôi nghe tiếng ông ta hét:
- Cút ngay, cút ngay, không ta cho chúng mày xuống đường tàu.
Tiếng ông ta bập bùng như gõ trống bên tai. Hình ảnh ông cũng lờ mờ, bị lủi chìm
trong màn nước mắt. Tôi trùm tấm khăn len lên đầu, khóc nức nở, khóc như bị đòn
oan, không còn kiềm chế được. Người khách đồng hành vỗ vai tôi nhẹ nhẹ, ra chiều
an ủi. Rồi sau đó, ông ta khoanh tay, ngồi im lặng với vẻ mặt của một người từng
trải, kiên nhẫn chờ đợi.

Bây giờ, tôi không hiểu vì sao tôi đã khóc như thế. Nhưng lúc ấy, nước mắt như dòng
lũ không ngăn được. Lần đầu tiên, trong đời, tôi khóc trước một người khách lạ. Ông
ta lại rút thuốc ra châm. Còn tôi, khi đã khan hét giọng, tôi rũ xuống như tàu lá héo,
ngã vật vào góc toa tàu. Bên ngoài, những thị trấn, những phố lẻ lác đác ánh đèn
trôi qua. Giống như những đốm lửa lạnh lẽo, xa cách, chúng nhắc nhở sân ga
Mátxcơva năm trước.

Năm ngoái, cũng bà Vêra trao cho tôi bức điện:


“Hằng đến ngay Mátxcơva. Khách sạn Ratxia. Phòng 607.”
Tôi biết cậu Chính đã sang Nga, vì từ ba tháng trước, mẹ tôi viết thư báo. Tôi cũng
ngồi trên con tàu này, vượt qua hàng ngàn cây số để tới Matxcơva vào một sớm lạnh
lẽo. Tuyết chưa rơi, nhưng những đám lá vàng cuồi cùng của mùa thu đã ngả sang
nâu sạm. Trên hè, những mảnh lá úa tàn bị gió lùa theo gót khách vãng lai. Trên
không, thỉnh thoảng lại có vài chiếc lá vàng hiếm hoi bay lượn, như mảnh ước mơ
của mùa thu bay lượn trước cửa ngõ mùa đông. Áo mỏng quá, tôi rét. Tôi phải giở
bản đồ thành phố, nhanh chóng tìm bến xe điện ngầm gần nhất để xuống. Dưới các
đường hầm ấm hơn trên mặt đất nhiều. Tìm được bến, tôi cắm đầu cắm cổ chạy. Lúc
ấy, dân Mátxcơva chưa đi làm. Đường phố vắng, chỉ có những cảnh sát giao thông
đứng trực trên các ngã tư, và trên quảng trường. Vừa chạy, tôi vừa ước ao một chén
chè nóng pha đường. Nhưng lúc ấy, có tài thánh cũng không kiếm nổi một chén chè.
Chưa tới giờ các quán ăn công cộng cũng như các bútphét mở cửa. Xuống ga, tôi
ném đồng năm xu vào cửa tự động rồi bước qua hàng rào, vào trong. Tuyến đường
tôi đi ngay gần đó. Hai phút sau, tôi đã ngồi trong toa, tở dồn dập vì mệt và lạnh. Da
dẻ tôi dần dãn ra trong bầu kkhông khí ấm. Ngả người ra phía sau, tựa vào lưng ghế,
tôi nhắm mắt lại, lắng nghe tiếng bánh xe nghiến lúc tới các bến đỗ, tiếng của các
hành khách mới lên. Khách vắng, cả toa chỉ dăm người. Tuy thế, tôi không thấy côi
cút, tôi mong mỏi giờ gặp gỡ. Tôi sẽ biết tin mẹ tôi, và mọi chuyện bên nước nhà,

92
Những Thiên Đường Mù

Mỗi ga, người phát thanh viên lại xướng lên trong loa phóng thanh. Nhờ đó tôi có thể
mở mắt đứng dậy vào đúng ga cần tới.

Tàu dừng hẳng, tôi bước lên bờ kè. Ở đó, phải nhảy một lúc cho ấm người, tôi mới đủ
dũng khí ra đi. Từ ga tàu điện ngầm tới khách sạn rất gần, chỉ qua vài khúc phố với
một vườn cây nhỏ, ngả nghiêng những thân liễu mềm, thân bạch dương trắng óng.
Cỏ đã trụi, đất phơi ra màu đen xỉn như xỉ than nghiền vụn. Những con chim câu già
lông cánh xác xơ kiếm ăn sớm, kéo lê bộ đuôi bẩn thỉu dọc hè phố. Dưới bờ sông
đào, con sông đang ngủ, làn nước màu chì phẳng lặng, không gợn sóng xao. Có một
người đàn ông cao lớn, thọc hai tay vào túi, đi dọc theo bờ kênh. Vừa đi, ông ta vừa
huýt sáo khe khẽ. Đó là giai điệu một ca khúc đang được ưa chuộng “Tình Yêu Màu
Xanh.” Tôi đi sau người đàn ông, lắng nghe tiếng huýt sáo vọng trong không gian
yên tĩnh như mơ ngủ. Tiếng sáo làm tôi bớt lạnh. Giờ này, có tới, người gác khách
sạn cũng không cho vào. Vì lẽ đó, tôi đã mê mải đi theo thứ âm nhạc dân dã kia. Tôi
đuổi theo nó mãi, tới khi người đàn ông dừng lại trước một tòa nhà cao tầng, ngẩng
lên tìm kiếm một địa chỉ nào đó, và ông ta thôi không còn huýt sáo nữa. Sang
đường, tới khách sạn, tôi phải đợi hơn nửa giờ sau mới được vào. Cậu tôi đã chờ tôi ở
phòng khách tầng dưới, cùng với một chàng trai. Anh ta là phiên dịch của đoàn. Nhờ
anh ta năn nỉ với người gác phòng, tôi được đưa lên tầng gác thứ sáu, nơi cậu tôi ở.
Hành lang trải dạ thẫm màu, vắng tanh. Khách còn đang ngủ. Cậu Chính nói oang
oang:

- May quá, nhờ cậu chú cháu tôi khỏi phải đứng dưới nhà. Thôi nhé, lúc nào cần tôi
sẽ gọi.
Tôi nói.
- Cậu khe khẽ thôi. Có phải ở nhà mình đâu?
Cậu há miệng.
- Ờ ờ...
Rồi đưa tay chào người phiên dịch. Tôi thấy anh liếc tôi, mủm mỉm cười trước khi mở
cửa phòng mình. Chúng tôi còn phải đi xa nữa, người phiên dịch ở phía đông , cậu
Chính ở phía tây. Qua gian sảnh chung, tôi thấy hai phụ nữ trẻ đang ngồi đan áo.
Cậu bảo:
- Giá cháu giỏi tiếng Nga, bán được mấy chiếc áo len cánh dơi cho các cô này thì tốt.
Tôi nhìn cậu, không nói gì. Tới trước cửa phòng, cậu rút chìa khóa, mở cửa.
- Vào đi cháu.
Tôi vào trước, cậu vào sau. Cậu khóa cửa cẩn thận rồi mới đưa tôi vào phòng. Tôi
hỏi:
- Cậu ở một mình?
- Ờ, tiêu chuẩn của cậu.
Ngẫm nghĩ tí chút, cậu nói thêm:
- Ở một mình là tiện nhất.
Nói xong, cậu đưa mắt liếc ra ngoài cửa sổ. Nơi đó, những mái nhà thành phố hiện
lên trong làn ánh sáng trắng như sữa của bình minh. Cậu ngó nghiêng lần nữa, vẻ
yên tâm. Lúc đó, cậu nói:
- Cháu đem giải quyết mớ hàng này.
Rồi quì xuống, cậu lôi chiếc túi du lịch nhét trong ngăn dưới cùng của chiếc tủ gỗ ra.
- Hàng mợ chuẩn bị đầu đủ lắm cơ.
Kéo phécmơtuya roạt một tiếng, cậu sắp sửa lôi các thứ hàng xếp bên trong ra. Tôi
vội nói:
- Từ từ đã cậu.
Cậu bảo.
- Nhưng lát nữa cậu còn phải họp đoàn, còn làm việc với bạn.
Tôi bảo.

93
Những Thiên Đường Mù

- Chẳng đi đâu mà vội, ở đây, người ta không thức dậy sớm như bên mình.
Cậu băn khoăn.
- Nhưng lỡ tay phiên dịch nó sang.
Tôi nói.
- Chẳng sang người ta cũng thừa biết.
- Hằng..
Cậu quát lên, mặt tái mẹt.
- Mày nói gì thế!
Tôi đáp:
- Cháu nói thật.
Cậu gằn giọng.
- Cháu mấy chắt, đồ mất dạy.
Tôi lặng im. Cậu hùng hổ đi tới trước cửa sổ, vén tấm rèm lên, chẳng hiểu cậu tìm
thấy gì trong khung cảnh của thành phố sớm mai yên tĩnh? Hai tay chống nạnh, đôi
vai nhô lên, chắc cậu đang trút những hơi thở dài, bực bội. Lát sau, cậu quay vào,
giọng hiền từ hơn.
- Thôi... Nhưng lẽ ra, cháu cũng không nên nói thế.
Tôi lặng im, không đáp. Cậu khẽ nói.
- Hằng này, cậu không muốn nhờ người khác, hoặc họ dìm giá, hoặc họ thóc mách,
đồn thổi. Cháu giúp cậu.
Tôi bỗng thấy mỏi mệt đến nỗi muốn lăn ra giường ngay. Các đầu khớp xương nhức
buốt. Da nổi gai ốc đầy lưng, và những cơn ớn lạh liên tục chạy dọc theo xương
sống. Cảm giác giá lạnh cộng với cơn đói dày vò, khiến các cơ bắp như chảy lan ra,
không có cơ hồ giữ lại. Tủi cực chăng? Khóc chăng? Nước mắt đã cạn. Tôi nhìn cậu,
nói khe khẽ:
- Đáng lẽ, cậu nên thông báo cho cháu tình hình gia đình, sức khỏe mẹ cháu ra sao?
Đáng lẽ, cậu nên cho cháu một chén nước chè. Cháu từ hàng nghìn cây số tới đây.
Cậu đứng ngẩn người ra, rồi ờ ờ... những tiếng vô nghĩa, tay cậu trở nên thừa thãi.
Lát sau, cậu đi đến tủ lạnh, mở cánh cửa. Bên trong, lổng chổng một đống bánh mì
tròn, thứ bánh mì bán trong các bútphét, hai xu một chiếc.
Tôi nói:
- Cám ơn cậu.
Nói đoạn, tôi đứng lên.
- Cậu làm ơn mở khóa cửa cho cháu.
Cậu mở cửa. Tôi đi dọc hành lanh, tới gian sảnh. Hai người phụ nữ trẻ vẫn đang đan.
Tôi hỏi họ bútphét ở đâu? Họ chỉ đường cho tôi. Đi tới cuối mút hành lang, xuống
tầng thứ 3. Bútphét đã mở. Khách ăn còn vắng. Chỉ vài ba người đàn ông to béo ngồi
ăn dămbông với phomát. Bàn trong cùng, một cặp trai gái cao gầy, tóc bạch kim, có
lẽ người Bắc Âu đang uống bia. Tôi mua một phần tư con gà, một đĩa trứng ốplếp với
một chiếc bánh ngọt phết mứt dâu. Chừng ấy, đủ cho tôi chống cơn rét mệt. Ăn sáng
xong, tôi trở về phòng, mang theo túi hoa quả. Trong phòng, chừng non một chục
người ngôi. Đó là đoàn công tác của cậu tôi sang họp. Anh chàng phiền dịch ngồi sát
cửa, ghé mắt nhìn xuống phố xá. Những người khác, vừa nghe vừa nặn trứng cá
hoặc gãi mụn ruồi. Người nào cũng có vẻ bồn chồn. Chắc chắn họ đang tính cách nào
bán hàng hóa nhanh nhất và nhờ ai mua được nhiều hàng hóa nhất. Cậu Chính đang
cao giọng nói:
- Tôi yêu cầu các đồng chí nêu cao tinh thần gương mẫu trên đất nước bạn. Tất cả
phải có ý thức tổ chức.
Tôi lặng lẽ quay ra. Tới gian sảnh tôi ngồi vào một góc ghế bành, chờ đợi. Nhưng
trong góc chiếc ghế bành êm ái bọc nhung đỏ, tôi thấy côi cút. Tôi thấy cực nhục.
Cơn đói và rét qua rồi, chỉ còn lại cơn xâm kích của các làn sóng tê tái. Chúng giống
như các làn sóng biển thực sự, cứ ào tới rồi lại rút ra xa, lặp đi lặp lại triệu triệu lần.
Nhưng không phải nước mặn, mà một thứ muối xót xa, một nỗi đau quằn quại,1 mỗi

94
Những Thiên Đường Mù

buồn thê thảm, không thể cắt nghĩa.


- Mẹ ơi i i...
Gương mặt mẹ hiện lên, trong khoảnh khắc ấy. Một gương mặt hiền dịu, tươi cười.
Vừa thân yêu, vừa xa cách.

95
Những Thiên Đường Mù

Chương 16

Dẫu sao, mẹ cũng vẫn là mẹ của tôi. Tôi yêu người. Từ biệt cô Tâm, với làng quê, với
bao nhiêu ưu ấp, tôi trở về thành phố. Mẹ đang ngồi chải đầu. Hình như mẹ vừa gội
đầu xong, tóc chưa kịp khô. Tôi chạy ào tới mẹ:
- Mẹ... Mẹ nhớ con không?
Mẹ ngẩng lên, đôi mắt chớp chớp xúc động. Nhưng qua giây phút ấy, mẹ lại dằn dỗi,
nói:
- Nhớ! Chỉ có con nhiều thú vui, con mới chẳng nhớ ai.
Tôi ôm mẹ cười:
- Chẳng nhớ ai thật. Nhưng chỉ nhớ riêng mẹ thôi.
Rồi tôi nói thêm, khẽ khàng:
- Mẹ buồn cười lắm. Chẳng ai thay thế được mẹ.
Mẹ cúi đầu im lặng. Có lẽ, đó là nỗi im lặng sung sướng. Tối hôm ấy, mẹ nấu chè sen
cho tôi ăn. Suốt đêm, tôi ôm mẹ ngủ. Chỉ còn ba ngày nữa là tựu trường. Đã bước
vào năm học, tôi sẽ chẳng còn thời giờ nhõng nhẽo. Vừa từ giã đám bạn học cũ, tôi
đã có những bạn gái mới, những nữ sinh viên đại học tương lai. Suốt ba ngày liền, họ
kéo đến, sắm sanh quần áo, sách vở, tính toán trước những khoản tiền phải nộp cho
nhà trường. Giá một đôi guốc bây giờ cũng đủ cho các bà mẹ có con gái lớn lo thắt
tim. Có một cô, trong đám nữ sinh ấy, phải rửa bát thuê cho hàng phở, gánh nước
suốt một vụ hè mới sắm nổi một bộ quần áo thường và một đôi guốc. So với các
bạn, tôi phong lưu hơn. Cô Tâm sắm cho tôi một sấp vải các loại, từ thứ hàng kaki,
hàng len ngoại may quần với các thứ phin nõn pha nilông, pôpơlin màu, vải sợi bông
thô, lụa tằm pha sợi tổng hợp. Cứ sấp vải ấy, tôi có thể may quần áo đủ mặc suốt
bốn năm . Nhưng mẹ tôi lại kỳ cục tìm mua cho tôi một mảnh phin nõn Nhật màu
hoa cà, điểm những chấm trắng lấp lánh như chấm tuyết. Rồi mẹ lặn lội xuống tận
Hàng Bông may cho tôi một chiếc sơmi kiểu mới, tại một hiệu may đang có tiếng là
thời trang.
- Cô Loan bảo bây giờ đang có mốt áo Đan Mạch. Mẹ may cho con kiểu ấy.
Tôi ôm cổ mẹ.
- Mẹ trở thành một tay chơi chính hiệu rồi đấy. Hơn con nửa cây số công mười lăn
phân.
Mẹ cười sung sướng. Chiếc áo trông rất kỳ khôi, với các mảnh vải đan chéo, bổ
ngang, các thứ quai và khóa sáng loáng. Mặc lên, tôi hóa thành một nữ ca sĩ trong
băng nhạc da đen, da đỏ nào đó ở châu Mỹ Latinh. Nhưng tôi đã mặc nó trong ngày
tựu trường. Mẹ tôi nắc nỏm khen.
- Đẹp lắm, con ạ. Hiện đại lắm.
Chắc những danh từ ấy mẹ nghe lỏm của thiên hạ, đám người ngày ngày vẫn tới
hàng của mẹ mua măng khô, miến, đỗ, lạc, đường... Mấy anh chàng sinh viên khóa
trên nhìn tôi cười nhăn nhở.
- Ai vẽ cho em cái áo mốt thế?
Tôi im lặng. Và bọn họ cười ré lên. Nhưng tôi vẫn mặc cái áo tím kỳ khôi ấy, để thấy
mẹ tôi cười. Người lớn, đôi khi cũng không khác con nít là bao. Những cơn mưa thu
lại rơi, rổn rảng trên mái tôn. Nhưng gia đình tôi đã trở lại vui vẻ. Tối tối, mẹ ngồi
đan áo. Chiếc áo len màu hoàng yến sẽ cho tôi diện dịp Tết Nguyên Đán này. Còn
tôi, tôi cắm cúi trên các trang sách, thấy nhịp điệu đời sống xiết bao êm ái, thanh
bình. Trong ngõ nhỏ, tiếng hát của anh què lại rống lên:
Rồi thu sang lá vàng rời đầy...

Nhưng tôi không còn thấy tim tái tê vì nỗi buồn thống thiết, vì một thất vọng che
chắn cuối chân trời. Tôi chỉ cảm nhận trong những âm thanh ấy, một nỗi xót xa mơ

96
Những Thiên Đường Mù

hồ khiến ta phải não lòng, một niềm thương cảm trìu mến, ý muốn được che chở cho
ai đó, được ủ ấp một mái đầu nào đó, được đưa bàn tay cho một bàn tay chới với
giữa dòng nước xiết.

Tôi vào trường được hơn hai tháng, một chủ nhật, mẹ rủ tôi tới nhà cậu Chính.
Không muốn làm mất lòng mẹ, tôi nhận lời. Thế là, sau mấy năm trời, tôi trở lại khu
tập thể K. Khu nhà ấy đã cũ nhiều. Con đường chạy qua các trục chính đã tróc lở
nhiều khúc. Các khoảng sân, các bậc thềm cũng như vậy. Người ta tự tu tạo bằng
nhiều thứ vật liệu khác nhau, trông như nhiều mụn và khác màu trên một mảnh áo.
Các bức tường vôi nhạt màu, hoen mưa gió, in những hình vẽ loằng ngoằng thô tục
của bọn trẻ hư. Không khí oi nóng, quẩn tụ một thứ khói lạ, rất khó gọi tên. Có lẽ, nó
là tổng hợp của khói thuốc lào, thuốc lá, khói các bếp dầu vừa tắt, khói ngún từ các
bếp lò đun mùn cưa, và khói từ các đống rác nhỏ rải rác khắp các ngóc ngách khu
nhà. Rất nhiều nhà mở đĩa hát và máy nghe băng nhạc. Nhạc Rock, nhạc trữ tình,
nhạc tiền chiến xen lẫn điệu hát chèo và cải lương. Thanh niên tụ thành từng nhóm
trước hè, miệng phì phèo thuốc giương những cập mặt thô lỗ nhìn người qua đường,
buông lời chòng ghẹo. Tất cả đã thay đổi. Trạm gác gỗ ngoài cửa cũng không còn.
Những mảnh ván đã được dọn trơ trụi, chỉ còn cây tre làm gạt chắn vẫn ngơ ngất
chọc lên trời.

Cậu mợ Chính đang ngồi vặt lông vịt trong nhà. Thấy mẹ con tôi, mợ Thành rửa tay
chạy vào, niềm nở chào hỏi. Hai đứa con trai họ Đỗ đã lớn lên nhiều, so với hồi tôi
gặp. Nhờ thực phẩm của bà bác trợ cấp, chúng hồng hào béo tốt hẳn lên.
- Cháu chào bác. Em chào chị Hằng.
Lần này, không cần mệnh lệnh của ông bố, chúng cũng cất tiếng đồng thanh. Mẹ
chúng liếc nhìn tôi, cười hớn hở.
- Cháu Hằng lớn lên, xinh quá nhể.
Mợ ta béo ra nhiều, mặc bộ quần áo lụa xanh hoa dây hồng, lại đính thêm một hàng
đăngten lòe xòe dưới gấu áo. Mợ xăng xái đi lại, pha trà, rót nước, cả hai lườn, cả đôi
mông lặc lè mỡ. Mặc dù đon đả mời nước, đôi mắt hẹp của mợ vẫn liếc về chiếc làn
thực phẩm của mẹ tôi đặt dưới sàn nhà, gần góc tủ. Tuy vậy, lúc ấy trong mợ vẫn dễ
chịu hơn lúc ngồi trước bàn, vừa ngậm tăm vừa đọc tuyển tập của Lênin. Sau lần đến
nhà mợ đầu tiêu, tình cờ tôi được nghe một đứa bạn kể. Bố mẹ nó là giảng viên
trường đại học, được trưng tập về giảng dạy ở trường Đoàn. Họ phải làm việc dưới
quyền mợ Thành vì mợ là Đảng viên lâu năm. Cả hai khốn khổ 8 năm ròng vì bị trù
úm. Vốn là những người có kiến thức, giàu lòng tự trọng, họ không thể chịu được
một người ngu dốt, lại chỏng lỏn. Mợi ta vừa tự ti, vừa cường hào một cách phi lý. Có
lẽ, bởi vì mợ mới học hết cấp hai trong trường bổ túc công nông, mà lại có trọng
trách duyệt toàn bộ chương trình triết học.
- Kìa, cháu uống nước đi. Em mời chị.
Mợ ta vỗ vai tôi, rồi chỉ chén trà nóng, tươi cười. Khi cười, những nốt rỗ có bớt phần
nguy hiểm. Tôi hỏi mợ:
- Hồi trước, cháu thấy mợ có bộ tuyển của Lênin mới tinh. Đâu rồi?
- Trong tủ, mợ cất trong tủ.
Người đàn bà trả lời hăng hái, tay chỉ chiếc tủ gỗ mới, nước sơn vécni còn mùi thơm.
- Cháu có cần, mợ cho mượn. Mợ đã nghiên cứu xong chủ nghĩa Mác-Lênin rồi, Giờ,
mợ đang phải nghiên cứu các văn kiện.
Nói tới đó, chợt mợ đổi giọng kêu:
- Ay, chị để em... để em.
Vừa nói, mợ vừa lao tới, đỡ gói đường trên tay mẹ. Miện túi nilông bị sút sợi thun
buộc, chỉ chút nữa đường đổ tung tóe. Mợ Thành cười hỉ hả.
- May thật là may.
Tới đó mợ quên bẵng câu chuyện về chủ nghĩa Mác-Lênin với các văn kiện, mợ quay

97
Những Thiên Đường Mù

sang cái làn thực phẩm. Cùng với mẹ tôi, mợ lần lượt dỡ từng túi đường, đổ vào
những chiếc thẫu thủy tinh cao cổ miệng loe, những chiếc thẫu dùng ngâm rượu rắn
cho đàn ông, ngâm mơ, ngâm táo cho đàn bà con trẻ. Xong xuôi, mợ lấy thịt và giò,
thứ đem cất, thứ đem thái rim, thứ đem bày ra đĩa. Hai gò má mợ hồng hào, nhoáng
mỡ.
- Gớm, bác cho hai cháu nhiều đường thế! Uống tới mùa thu sang năm cũng chưa
hết. Anh Chính ơi! Xong chưa? Nhớ hãm tiết canh đúng kỹ thuật đấy nhé. Chị Quế
chỉ thích mỗi món tiết canh vịt thôi.

Nói xong, mợ cười, hai mắt tít lại. Mẹ tôi cũng cười, hồn nhiên, thành thật. Giờ đây,
mẹ đã có vị trí xứng đáng trong gia đình người em trai. Mẹ hoàn toàn mãn nguyện.
Cái khoảng thời gian me bị khinh khi, ghẻ lạnh đã qua rồi. Giờ đây, mẹ trở thành
người bảo trở. Mẹ gom góp từng xu để bù trì cho đứa em trai.

Và mái nhà cũ kỹ của chúng tôi sẽ không thể nào thay đổi. Mái nhà như hai mảnh vá
khác màu. Trưa hè bỏng rãy, mùi nhựa đường khét lẹt bốc lên. Và mưa thu, gõ, gõ,
gõ, gõ trên mảnh tôn đã lốm đốm thủng. Quá vãng đã được chôn vùi trong tro trấu.
Món cháo lú của tinh thần hào hiệp và đức hy sinh. Đầu óc những người đàn bà nói
chung là ngắn ngủi. Họ chỉ sống với khoảng khắc đang sống...
Đột nhiên, cậu Chính cao giọng gọi tên tôi.
- Cháu Hằng,
- Dạ.
- Vào bưng cho cậu đĩa tiết canh.
Tôi chạy vào buồng, bưng đĩa tiết canh theo chỉ thị của cậu. Tới mâm, tôi đặt xuống,
ngắm nghía. Tiết canh đông cứng như khối thạch, chân đĩa không có ngấn nước long.
Bên trên, gan vịt thái mỏng, lạc rang vừa lửa vàng rươm rắc đều cộng với tỏi nhánh
đập vụn. Cậu lại gọi:
- Còn đĩa rau thơm ăn kèm, bưng lên nốt.
Một đĩa rau húng chó, húng láng, răm, ngổ, hành sống, mùi ta, mùi tàu. Không thiếu
thứ gì. Cậu giải thích.
- Gia vị mỗi người mỗi sở thích. Ai thích gì, lấy thứ nấy.
Rồi cậu xoa tay.
- Hồi trên chiến khu Việt Bắc, chỉ nhờ tài đánh tiết canh vịt mà đại đội trưởng yêu
cậu đấy.
Mợ Thành hể hể, đế thêm.
- Bây giờ cũng thế. Thủ trưởng của cậu Chính, có giỗ có Tết có tiệc tùng đều gọi cậu
tới làm món tủ: tiết canh với hầm ba ba.
Cậu Chính hỏi vợ.
- Chai rượu mùi đâu Thành nhỉ?
Mợ Thành đáp.
- Trong tủ, ở góc trái ấy nhé.
Cậu mở tủ, lầy chai rượu cam ra. Mâm cơm đã dọn trên giường, sau khi khép hai
cánh cửa và kéo tấm màn che một cách kỹ lưỡng. Vịt luộc, vịt rang gừng, tiết canh,
chả quế và giò mẹ tôi vừa đem tới. Cậu Chính rót rượu.
- Nào, cả nhà ta vui vẻ.
Mọi người nâng cốc. Tôi cũng nâng cốc, chạm cốc với họ.
- Nào, hãy vui vẻ.

98
Những Thiên Đường Mù

Chương 17

Sự vui vẻ ấy kéo dài thêm một năm. Qua năm sau, cậu Chính bị bệnh đái đường.
Căn bệnh oái oăm, nhất là thời buổi gạo châu củi quế. Cậu phải ăn toàn thịt, mà lại
toàn thịt nạc, không được lẫn một tí ti mỡ nào. Cậu là chuyên viên hai, lương gốc
115 đồng, nhà nước bao cấp không thể chiêu đãi cậu cho tới nơi tới chốn. Khi tôi đến
viện, cậu ngồi bó gối trên giường, hai hốc mắt sâu hoắm, da xanh nhớt như da nhái.
- Mẹ đâu?
Cậu hỏi tôi, mắt hướng về phía cửa phòng, có ý trông ngóng. Tôi đáp.
- Mẹ cháu còn mua thêm cân cam.
Cậu rên rỉ.
- Cam với quít. Có ăn được đâu mà mua.
Tôi nói.
- Mẹ cháu vẫn tưởng cậu được phép ăn hoa quả.
Cậu nói cấm cảu.
- Kiêng. Kiêng tất. Bác sĩ bảo thế.
Nói xong, cậu ngồi thừ ra, trong ánh mắt hằn lên nỗi âu lo. Đúng lúc ấy mẹ tôi bước
vào phòng. Mẹ cúi chào mọi người rồi rón rén ghé ngồi bên giường bệnh.
- Cậu xanh quá.
Mẹ rền rĩ, nước mắt ứa vòng quanh. Cậu Chính cau mày nhìn mẹ quát.
- Đã chết đâu mà khóc? Chị gỡ bỏ mẹ đi.
Lần đầu tiên, tôi thấy cậu văng tục, nói năng không còn nghiêm túc và thanh lịch
như mọi bận. Trong đôi mắt hoảng loạn của cậu, lóe lên những tia sáng hãi hùng.
Cậu sợ chết. Những ngón tay cậu run run. Cả những sợi râu thưa thớt lởm chởm đâm
dưới cằm cũng run run. Mẹ tôi cắn môi, nhìn cậu.
- Bác sĩ bảo sao?
Quay mặt vào tường, cậu đáp trống không.
- Kiêng tuyệt đối, hoa quả cũng không được ăn. Và phải dùng thêm thuốc ngoại,
thuốc của Mỹ.
Mẹ tôi cúi mặt, nhìn những ngón chân đen đủi xỏ trong đôi dép kiểu Thái Lan đã cũ,
đế bẹt hẳn ra. Hồi lâu, mẹ thở dài và nói.
- Cậu cứ yên tâm chữa bệnh. Trước sau, chị cũng sẽ có...
Nói xong, mẹ xắp đặt những thứ thuốc bổ, những thứ thực phẩm cần thiết cùng hoa
quả lên bàn. Mẹ nhờ cậy gửi gắm cậu cho những người bệnh xung quanh, rồi cúi
chào họ trước khi dắt tôi ra về. Dọc đường, hai mẹ con cùng im lặng. Khi đã vào nhà,
cất túi, mẹ bảo tôi.
- Sông có khúc, người có lúc. Đời người, ai cũng có đận gian truân. Vả chăng, cậu chỉ
còn mẹ là người thân duy nhất. Con hiểu không?
- Vâng, con hiểu.
Tôi đáp. Và sau một lát đắn đo, tôi nói thêm.
- Mẹ yên tâm.
Từ dạo ấy, bữa ăn của chúng tôi rút xuống. Thoạt đầu, từ mức có vài lạng thịt quay
hoặc vài khúc cá rán giảm xuống món đậu om cà chua hành trường kỳ hoặc nhộng
rang. Sau đó món đậu om cà chua biến thành cá thầu dầu hoặc cá riếc răm kho khô.
Còn món nhộng rang xuống cấp thành tép biển rang nuối. Cả những thứ rau độn
bình thường cũng chạy theo sơ đồ của sự xuống dốc: từ súplơ, đậu hà lan, su hào,
đậu đũa, dưa chuột chúng tôi trượt qua các loại cải xanh, lá bắp cải già muối dưa
răm, cải soong và cả rau chuối thái ghém....
- Mát lắm con ạ, ăn cho nó giải nhiệt.
- Thứ rau này lành lắm, ăn nhiều da dẻ đỡ mụn nhọt.
Mẹ lý giải như thế, mỗi bận mẹ vác về một thứ rau mà chỉ nhìn đã đủ chán ngắt.

99
Những Thiên Đường Mù

Đang mùa đông, bệnh của cậu tăng lên, đòi hỏi lượng thuốc mua ngoài tăng gấp đôi.
Thực phẩm bồi dưỡng cho cậu cũng nhân lên theo cấp độ đó. Mặt mẹ tôi quắt queo.
Không hỏi, nhưng tôi biết mẹ đã phải nhịn bữa quà trưa ở chợ, lúc tôi học trong
trường. Hai gò má mẹ nhô lên, những nếp nhăn kéo dầy dưới hai đuôi mắt. Những
nốt tàn nhang hai bên cánh mũi và trên gò má lan rộng, kết liền thành từng mảng
nâu sạm trên gương mặt mẹ, khiến nó u ám và xấu xí.

Bữa ăn của mẹ con tôi chỉ còn dưa cải muối trường kỳ với với su hào kho mỡ. Món su
hào thái hình khẩu mía, kho mặn với tương rồi rưới mỡ nước lên giả làm thịt kho
hoặc cá kho tôi nhớ mãi. Tôi đã ăn nó suốt một mùa đông. Tồi sẽ nhớ nó cho tới lúc
xuống mồ. Tôi sẽ nhớ cả cảm giác tái tê của những buổi tối, khi đạp xe từ trường về,
hai lỗ mũi đặc kịt bụi, bụng đói đến teo tóp lại trong lưng quần, tôi đã thèm một
miếng thịt ra sao khi đi qua nhà bà Miều hoặc nhà chị Lan, hoặc nhà anh Hợp, mùi
thịt kho tàu thơm lừng bay ra, khiến tay chân tôi run lên, mắt mũi tối tăm lại. Tôi sẽ
nhớ mãi những buổi đêm như thế, đi học thêm ngoại ngữ về, tôi đã đạp đi đạp lại ba
vòng quanh một hàng phở, điệu như rong chơi, nhưng thực chất để hít thở mùi vị
ngon lành của nó lan tỏa trong không gian. Tôi sẽ nhớ cảm giác hổ thẹn của mình,
lúc quay đi để nuốt nước bọt trước một người đàn bà mập mạp ngồi tuốt xâu chả
nướng bỏ vào bát bún...
Một tối, không chịu nổi, tôi nói với mẹ.
- Con không đủ sức ngồi nghe giảng nữa. Mẹ bán một chiếc nhẫn đi lấy tiền mua
thức ăn.
Mẹ tôi cau có.
- Nhẫn của cô Tâm, không bán được.
Tôi cố gắng ôn tồn.
- Nhưng cô đã cho con. Con phải sống, phải học được trước khi cần đeo nhẫn.
Mẹ tôi đáp.
- Không.
Tôi muốn khóc. Nhưng tôi cố ghìm giữ cho nước mắt khỏi trào ra.
- Con đói.
Mặt mẹ tôi tím lạnh, hai mắt tối sầm, dữ dằn. Mẹ đột ngột đứng đật, hét như người
động kinh.
- Không. Tao đã bảo không là không.
Chưa bao giờ tôi thấy mẹ khủng khiếp như thế. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ xưng hô
với tôi thô lỗ thế. Tôi im bặt, lủi ra ngoài sân. Cơn đói tan biến. Các nỗi thèm khát
cũng tan biến. Chờ mẹ nguôi ngoai, tôi lên giường trùm chăn ngủ sớm. Tôi đã ngủ
một giấc rất dài, rồi thức dậy khoảng hơn hai giờ sáng. Một cảm giác lạnh lẽo khiến
căn nhà trống trải thêm. Tôi nhìn sang giường mẹ tôi, không thấy mẹ nằm ở đó.
Chiếc chăn bông vẫn cuộn tròn, xếp gọn ghẽ cuối chân giường. Lúc ấy, có tiếng nức
nở rất khẽ vẳng tới. Tiếng khóc của mẹ tôi. Không bật đèn, chờ cho mắt quen với
bóng tối, tôi hé cửa ra sân. Mẹ tôi ngồi trong bếp, gục đầu lên hai cánh tay. Cánh
cửa bếp nửakhép nửa mở, tôi nhìn thấy bóng đôi vai mẹ run rẩy từng cơn. Tiếng
khóc bị nén trong họng, chỉ bật ra những cơn nức nghẹn, ngắt quãng, nghe tủi cực
và ấm ức. Tôi đứng giờ lâu, phân vân giữa ý muốn vào an ủi mẹ và nỗi sợ hãi. Trong
cơn giận dữ bùng nổ buổi tối, có nguyên cớ nào đó rất lạnh lùng, không thể cắt
nghĩa. Nó khiến tôi ghê rợn. Thời khắc trôi qua, sương xuống ướt đầm mái tóc. Tôi
run lên vì rét. Tôi sực nhớ mình chưa kịp mặc áo ấm. Tôi trở vào nhà nằm thao thức
chờ mẹ lên. Nhưng chờ mãi vẫn nghe những tiếng nấc, như một ảo thanh vẳng bên
tai. Lâu dần, tôi ngủ quên...

Sáng hôm sau, tiếng xe máy ồn ĩ bên ngoài đánh thức tôi. Cửa đã mỡ. Ngay giữa
sân, người đàn ông đi chiếc Honda 67 đen trùi trũi đang ngồi chễm chệ. Ông ta vẫn
đeo cặp kính mắt xanh chai như bữa trước. Và nụ cười nham nhở như bữa trước đọng

100
Những Thiên Đường Mù

trên môi.
- A... a... Cô nương dậy muộn quá. Ở nông thôn chúng tôi mà lười thế là không lấy
được chồng.
Ông ta nhìn thấy tôi, liền nói chõ vào nhà. Sau lưng ông ta, một người đàn bà vừa
nhảy xuống: cô Tâm. Tôi choàng áo bông, chạy ào ra đón cô. Toàn thân cô, hai tay
cô, cả hai gò má và cằm cô lạnh buốt. Cô mỉm cười.
- Cháu của cô.
Nhưng rồi, chưa kịp ôm tôi vào lòng, cô đã lại đẩy bật tôi ra nhìn chằm chằm.
- Hằng làm sao thế?
Tôi cười.
- Có sao đâu cô?
Nhanh như sóc, cô luồn hai bàn tay vào trong áo len, vuốt dọc theo sườn và lưng tôi.
- Làm sao mà cháu trơ xương sườn, xương sống ra thế này?
Cô hỏi, giọng khẽ khàng, nhưng âm diệu khác lạ, nghe như thất thanh. Tôi chưa kịp
trả lời, mẹ tôi đã từ trong bếp đi ra. Hai mắt mẹ tôi sưng mọng, gương mặt héo hon
nhuốm vẻ hoảng hốt, sợ hãi.
- Chị vừa lên. Chị vào nhà chơi.
Mẹ quay sang người đàn ông.
- Mời bác vào nhà chơi.
Tay mẹ tôi cầm siêu nước. Chắc mẹ đã nấu cơm xong và đun được siêu nước đầu
tiên. Từ chiếc vòi nhôm, làn khói bay ra. Người đàn ông đeo kính, đáp lại lời chào
mời của mẹ tôi bằng một cái gật đầu rất hiên ngang, đoạn quay sang cô Tâm.
- Mấy giờ em dón chị?
Cô tôi bảo.
- Nửa tiếng nữa nhé. Giờ chú đi đi. Nhà chúng tôi có câu chuyện hàn huyên.
Người đàn ông đeo kính giơ một ngón tay sần sùi nâng gọng kính lênm cúi chào mẹ
con tôi.
- Cảm ơn cô nhé. Lúc khác tôi vào chơi.
Nói xong, ông ta cho xe nổ máy lượn ra đường. Chiếc mũ lông Mông Cổ to xù như
chiếc rế đại trên đầu. Tiếng máy Honda dội giữa các bức tường trong ngõ hẹp làm
rạn vỡ bầu không gian yên tĩnh. Vào giờ này, những hàng xôi lúa, xôi đậu đen, bánh
dày, bánh rán, bún gánh, phở gánh... đã ra đi hết. Chỉ còn lại tiếng nước chảy ồ ồ
vào một chiếc thùng tôn ai đó đang hứng ở vòi công cộng. Cô Tâm bảo.
- Ta vào nhà.
Rồi cô dắt tôi vào, tay bên kia xách chiếc làn tre nặng trĩu. Mẹ tôi cầm siêu nước đi
theo. Hai mí mắt mẹ tôi thâm quầng, tròng trắng vằn những tia máu. Mẹ đổ nước sôi
vào phích rồi sai tôi.
- Lấy cho mẹ gói trà.
Tôi hỏi.
- Ở đâu ạ?
Mẹ nói.
- Bốc trong thúng hàng vậy. Hôm nay bận quá.
Tôi mở thúng hàng, lấy thứ bình dân mẹ vẫn bán, pha nước. Trước đây, mẹ tôi không
bao giờ dùng tới nó. Đôi mắt sắc như dao cau của cô Tâm nhìn theo, lặng lẽ. Chờ cho
tôi pha nước, và mẹ tôi đã yên vị lên chiếc ghế đối diện với cô, cô Tâm nới cất giọng
rẽ ràng.
- Con Hằng nó đó ăn, sao không nói cho tôi biết một lời?
Mặt mẹ tôi đỏ ửng, mẹ lắp bắp.
- Em bận quá, tối ngày em ở ngoài chợ.
Cô quay sang tôi.
- Sao cháu không viết thư cho cô?
Tôi đáp.
- Tối qua cháu xin mẹ cháu bán một chiếc nhẫn đi mua thức ăn, nhưng mẹ cháu

101
Những Thiên Đường Mù

không cho.
Cô Tâm hỏi day lạ.
- Mẹ cháu không cho?
- Vâng. Mẹ cháu bảo của cô, không được tùy tiện dùng. Dạo này, hàng họ ở chợ khó
khăn.
Cô Tâm cười, bảo mẹ tôi.
- Chẳng lẽ tôi quý của hơn người. Cô thừa biết con Hằng sẽ thừa hưởng toàn bộ gia
sản nhà này? Để nó thành mớ xương khô rồi đeo vàng vào cổ hay sao?
Mẹ tôi đáp.
- Tuy là của chị cho cháu nhưng... em nghĩ là quyền ở chị. Chị chưa cho phép.
- Thôi được, giờ tôi cho phép. Có cả mẹ cả con cô ngồi đây, cô lấy đôi nhẫn với cặp
hoa tai cho tôi.
- Vâng.
Nhưng mặt mẹ tôi tái ngắt. Ngập ngừng một lát, mẹ tôi đứng dậy, vào buồng trong.
Mẹ lục rất lâu. Trong khoảng thời gian ấy, cô tôi thong thả bước tới bàn thờ. Cô lấy
tấm ảnh của bố tôi xuống, rút mùi xoa trong túi, lau sạch, rồi đặt lên. Cô đứng trầm
ngâm nhìn. Lúc đó, tôi chợt hiểu. Chàng thanh niên trong tấm ảnh mờ nhạt ấy, với
đường ngôi thẳng tắp trong trắng, với nụ cười thẹn thùng, đường cong của vành tai
và vẻ tươi tắn ngời lên trong ánh mắt... sao giống người đàn bà nhỏ thó da nâu sậm,
đôi vai mỏng và gầy, những nếp nhăn khắc khổ hằn hai bên khóe mép. Hai chị em
giống nhau lạ lùng. Một người dưới cõi âm và một người trên dương thế. Một thiếu
niên và một người đàn bà khô héo, sắp bước lên bục lão làng. Có lẽ, đó là sức mạnh
bí ẩn của huyết thống.
- Chị...
Mẹ tôi từ trong buồng bước ra, một tay nắm chặt, mặt bỗng dưng nhợt nhạt như
người phải cảm. Cô Tâm quay lại. Bước những bước khoan thai, cô đi lại bàn nước,
ngồi xuống ghế. Cầm chén chè đã bắt đầu nguội, cô đưa lên môi nhấp và hỏi mẹ tôi.
- Có chuyện gì thế, cô?
Mẹ tôi vẫn đứng lom khom, không dám ngồi xuống ghế. Một tay nắm chặt, tay kia
vịn vào mép bàn.
- Em định nói với chị... là...
Cô Tâm im lặng, nhìn thẳng vào mắt mẹ tôi. Từ đôi mắt cô bắn ra những tia sáng
lạnh, nhọn sắc, dường như chúng có màu tím. Tôi có cảm giác mẹ tôi sắp ngã quỵ
trước những tia nhìn giá buốt ấy. Tôi định chạy tới đỡ mẹ. Nhưng một sức mạnh
không cắt nghĩa được đã kiềm chế lại. Mẹ tôi vẫn đứng, môi trắng như giấy ngâm
nước, cô gắng nói cho hết câu.
- Cặp nhẫn của chị, em cho người bạn mượn làm vốn buôn đường xa. Vì... họ hứa...
chia lãi...
Tôi biết mẹ nói dối. Cô Tâm mỉm cười:
- Một tháng họ chia cho cô bao nhiêu?
Mẹ đáp, lần này trơn tru hơn.
- Năm phân.
Cô tôi vẫn cười, nói từ tốn.
- Nếu thế, một tháng, riêng tiền lãi đã đủ hơn 10 cân thịt, làm sao con bé lại gầy trơ
xương thế này?
Mẹ tôi đáp, lần này rất nhanh.
- Nhưng em mới cho họ vay ba tháng nay. Ba tháng, họ chưa nhờ cậy được ai quen
thuộc và tín cẩn để gửi tiền ra. Em có nhắn cho họ biết, cứ chồng tiền lại, tính lời,
nửa năm em lấy một lần, cho ra tấm ra món...
- Họ ở đâu vậy?
- Minh Hải. Hai vợ chồng đem nhau vào tận trong đất mũi làm ăn. Đó là nơi tụ tập
dân tứ xứ.
Tôi không ngờ mẹ tôi ứng biến mau lẹ thế. Những người dối trá, chỉ khó khăn nhất

102
Những Thiên Đường Mù

khi vượt qua ranh giới đầu tiên. Khi đã qua ranh giới ấy, không còn cái chốt nào hãm
họ lại. Cô tôi đứng dậy đi xuống bếp. Vẫn dáng đi thong thả như thế. Rồi cô trở lại
với mâm cơm đậy lồng bàn. Cô đặt mâm cơm lên, và lật chiếc lồng bàn ra: một đĩa
dưa cải củ muối xổi, với một đĩa xu hòa kho tương. Thực đơn quen thuộc từ ba tháng
nay. Cô nhếch môi cười. Mẹ tôi rùng mình, rồi cúi gằm mặt xuống. Mặt mẹ, hai bàn
tay mẹ, cổ mẹ tất cả đều tím như người bị tụ huyết sau trận đòn. Cô Tâm nói.
- Cô ngồi xuống ghế.
Lúc này, mẹ tôi giống như kẻ mất hồn, đờ đẫn làm theo lời sai khiến của cô. Mẹ tôi
ngồi, đối diện với cô nhưng không ngẩng đầu lên. Cô lại bảo.
- Đưa đôi bông tai đây.
Mẹ tôi đặt bàn tay vẫn nắm chặt lên bàn khẽ xòe ra, để rơi một gói lụa nhỏ màu
xanh. Cô Tâm nhặt gói lụa đó lên, không thèm mở ra xem, mà gạt nó về phía ấm
trà, như người ta gạt một bao thuốc lá hay một chiếc bật lửa. Cô nói.
- Cô Quế này, trước kia tôi vẫn thương cô. Dù những ngày oan khổ, cũng chưa phút
nào tôi oán trách.
Giọng cô Tâm đều đều, như người đọc kinh, hàm chứa sự bình thản tột vời. Nghe cô
nói, mẹ tôi rùng mình như bị lạnh, rồi mẹ cúi đầu thấp hơn, nhô vai lên cao như để
tránh cơn gió buốt.
- Cô có nhớ ngày cô giả bộ móc cua để gặp tôi không?
Cô Tâm nói, và dường như mỗi lời nói là một lằn roi quất lên đầu mẹ tôi.
- Ngày ấy, lúc cô đi theo bờ ruộng, tôi cắp rổ quần áo ướt về làng, nước mắt hai
hàng lai láng. Tôi thương thân, thương chú Tốn, thương cô. Làm sao còn nỡ dày vò
nhau, những con người oan khổ. Tất cả nông nỗi ấy là số kiếp...
Mẹ tôi không gượng được, gục đầu xuống mép bàn. Giọng cô tôi rót đều đều.
- Bao nhiêu đêm ròng tôi thức trắng. Những đêm ấy, tôi thấy oan hồn mẹ tôi, tôi
thấy hình bóng lang thang vật vờ của chú Tốn, tôi thấy gương mặt cô, cái buổi trưa
trời nắng tóe lửa, mà cô khóc ngôi khóc nghê như mưa dầm. Tôi biết vợ chồng cô
thương yêu nhau. Lạy trời cho vong linh em tôi mát mẻ...

Cô ngừng lại, mắt nhìn xa xăm. Rồi cồ nói tiếp.


- Tôi nhớ vụ mùa năm ấy. Ba giờ sáng tôi thức dậy, luộc một nồi khoai sọ, nửa ăn,
nửa đùm vào giỏ đem theo. Thắt lưng buộc cho chặt, đi cấy thuê cho tiên hạ. Non
trưa, cơn đói đã réo như sôi trong dạ, phải bấm bụng cấy một mạch tới đúng trưa
mới dám giở giỏ khoai ăn. Mùa đông rét cắt ruột, người ta cấy xong lui về nhà làm
vườn, chăn con lợn con gà chờ lúa chín. Đèn lửa, cơm tối ấm bụng, vợ chồng con cái
họ kéo nhau lên giường. Tôi vác nón lội qua hai cánh đồng làm miến thuê. Mười một
giờ đêm còn ngồi ôm cối quay bột. Gà gáy nửa đêm mới đội nón về nhà. Qua đồng,
lửa ma trơi chập chờn như bóng đèn bay đuổi. Có bữa ở điếm canh thôn Đông, một
thằng đàn ông xô ra. Nó đè sấn tôi ngay vệ cỏ... Giá như bây giờ cứ mặc, lại có đứa
con nuôi. Nhưng lúc ấy, thì sống chết vật lộn, cào cấu. Đồng không mông quạnh, kêu
cũng chẳng ai nghe. Mà có nghe, người trong xã tìm đến nơi, nhận ra mình là con địa
chủ, họ cũng chẳng thèm cứu. Không biết chừng họ còn vu cho tội gian dâm. Cứ nghĩ
vậy, mà liều mạng giằng giật. Hồi ấy đang xuân, tôi còn hăng lắm. Tôi cắn cổ thằng
khốn nạn máu nó phọt ra mặn mà ấm như tiết gà. Nó kêu rống lên thả tay ra. Còn
mình cũng vớ chiếc nón đâm đầu mà chạy. Vừa chạy vừa nhổ phì phì. Vị máu đọng
trên đầu lưỡi, vừa tanh vừa mặn, đến nhà, gà gáy canh một , phải nhảy ùm xuống
ao tắm, giặt áo, tẩy uế mùi hôi. Lóp ngóp lên bờ, gà đã gáy canh hai . May sao đêm
hôm đó tôi không cảm hàn mà chết.

Cô lại ngừng. Hai bàn tay cô đặt lên bàn, như hai mảnh rễ cây chồng lên nhau, bất
động. Những chiếc móng tay nhỏ nhưng xù xì, sừng dày và nổi những rạch thẳng
như đường ray. Trên lớp da nhăn nheo hiện lên những chấm tròn nâu sậm. Đó là
những vệt đồi mồi. Chúng đã được tạo thành quá sớm, so với những người đàn bà

103
Những Thiên Đường Mù

khác, ở lứa tuổi cô. Sau một hồi lơ đãng nhìn vào hư không, cô nói tiếp.
- Cô Quế, cô còn nhớ hồi sửa sai không nhỉ? Cái buổi tối những người oan ức trong
làng đã tụ tập lại, đến trước cổng đập phá, đòi rạch miệng...
- Thôi, thôi...
Mẹ tôi bật kêu to:
- Thôi, thôi... Em xin chị, em lạy chị...
Rồi mẹ tôi khóc rưng rức, đầu gục xuống mặt bàn toàn thân run bần bật từng cơn.
Tôi đến bên mẹ tôi, van vỉ.
- Mẹ, đừng khóc, đừng khóc...
Nhưng tôi biết việc tôi làm thật vô nghĩa. Mẹ tôi buông những lời nói đứt đoạn trong
cơn nức nở.
- Em lạy chị, em lạy...
Cô Tâm ngồi im lặng. Đôi mắt tròn của cô cũng bất động, không thoáng qua chút
ánh sáng nào. Dường như lúc ấy, trong đôi mắt đen của cô, bóng tối và ánh sáng đã
hòa trộn để tạo nên một trạng thái âm u, mờ đục của khoảng khắc sau chót buổi
hoàng hôn. Cô chờ cho mẹ tôi ngớt cơn nức nở, lại nói tiếp, vẫn giọng đều đều không
âm sắc.
- Trên đời, chẳng ai gian dối được với ai. Cái kim trong bọc cũng có ngày lòi ra huống
hồ chuyện nhân gian, sờ sờ trước mắt thiên hạ. Ở quê tôi cũng biết được một số việc
cô làm, mọi đồng tiền cô tiêu. Tôi chẳng trách cô, ai ai cũng máu mủ ruột rà. Tôi
thương em tôi thế nào, người đời cũng biết thương em họ như thế. Nhưng trong
chuyện này, tôi phải rành mạch cho cô hiểu, em trai cô là kẻ tử thù của gia đình tôi.
Nó đã đẩy em tôi vào cõi chết. Tôi không cho phép ai dùng đồng tiền của tôi để nuôi
dưỡng nó.

Nói xong cô đứng lên.


- Từ nay, cô cũng không được quyền thờ cúng em tôi.
Nói xong, cô bước tới bàn thờ, lấy tấm khung kính lồng ảnh cha tôi. Tìm một mảnh
nilông, cô bọc lại cẩn thận. Sau đó, cô dỡ trong làn những thứ quà đem theo: nào
giò, nào chả, nào đường, sữa, nào bánh trái... Tất cả, chất ngồn ngộn trên bàn. Cô
Tâm bỏ tấm ảnh của cha tôi vào chiếc làn đã rồng không, bảo:
- Những thứ này của cô mua, đồng tiền của cô, mô hôi nước mắt của cô. Đem cho
cháu chứ không cho quân sát nhân đâu nhé...
Tôi không dám trả lời cô, chỉ im lặng gật đầu. Mẹ tôi đã thôi khóc, không ngửng đầu
lên, nhưng chắc chắn nghe rõ từng lời của câu nói riết róng ấy. Vừa lúc, tiếng xe
Honda nổ ròn trước sân. Cô Tâm nhìn ra.
- Đừng tắt máy. Tôi ra ngay đây.
Cô cầm gói lụa xanh bọc đôi hoa tai trên bàn, bỏ vào túi, rồi bảo tôi.
- Cô cất cho con. Của con không chỉ có đôi hoa tai này. Còn trăm nghìn thứ nữa,
Nhưng cô không muốn nó lọt vào tay kẻ khác.
Nói xong, cô bước ra cửa, không chào ai. Người đàn ông đeo kính màu xanh chai giơ
tay lên mũ, nheo mắt cười với tôi. Rồi ông ta phóng xe đi. Cô tôi ngồi phía sau, bé
nhỏ, gầy gò. Như con nhái bén bám vào quả dưa ếch.

Tôi quay vào. Mẹ ngẩng đầu lên, nhìn tôi. Mắt mẹ mọng nước, xa lạ và hằn thù. Tôi
gọi.
- Mẹ...
Nhưng mẹ không trả lời. Bỏ cơm, mẹ gánh gánh hàng ra chợ. Từ hôm ấy, quan hệ
giữa chúng tôi trở nên tồi tệ. Tôi không cắt nghĩa nổi vì sao. Tôi đã hết sức cố gắng,
hết sức nhường nhịn, nhưng không cứu vãn được. Thoạt tiên, là thái độ lạnh nhạt,
xen lẫn mỉa mai. Bữa ăn, tôi dọn ra, mẹ cúi đầu xăm xăm gắp dưa cải. Tôi gắp giò
chả bỏ vào bát mẹ, mẹ hất xuống mâm.
- Mời chị. Tôi không dám đụng đũa vào phần người khác.

104
Những Thiên Đường Mù

Tôi van vỉ.


- Mẹ lạ thật. Cô Tâm giận cô nói thế, mẹ để bụng làm gì?
Mẹ cười nhạt.
- Đồng tiền của người ta, mồ hôi nước mắt của người ta, tôi không dám.
Tôi cười xí xóa.
- Mẹ buồn cười thật. Ai mà chấp nê như trẻ con thế. Mẹ ăn con mới ăn.
Mặt mẹ lạnh như tiền, giọng kéo dài ra chế riễu.
- Ấy chết, chị phải tẩm bổ cho khỏe mà học cho thành tài. Người nhà chị nuôi dăm
bảy con lợn để chờ ngày chị đỗ trạng nguyên mổ khao làng, khao nước.
Tôi vẫn cười.
- Con chỉ sợ không phải người ta mà chính là mẹ mong con đỗ trạng thôi.
- Không dám. Tôi đâu được quyền xếp hạng với người ta?
Nói xong, một lần nữa, mẹ hất miếng giò tôi bỏ vò bát mẹ xuống mâm. Tôi cố cười.
- Thế mẹ muốn con xếp mẹ vào hạng nào? Con thì con chỉ xếp được mẹ vào hàng
lãnh tụ thôi.
- Đừng cho tôi đi tàu bay giấy. Chị đem người khác đặt lên bàn thờ thì hơn.
Dầu sao, tôi cũng chỉ là một cô gái 19 tuổi. Tôi không chịu đựng được thêm. Cơn tức
giận bùng nổ. Tôi nói.
- Dù mẹ đẻ ra con, con cũng phải nói sự thật. Chính mẹ sai lầm. Mẹ đã dối trá. Xưa
nay, chỉ một lần con nói dối mẹ. Hồi lên bảy, mẹ sai đi mua ba lạng thịt quay. Con
đã mua hai lạng rưỡi, bớt tiền để đi thuê truyện. Lần ấy, mẹ đánh con lằn hết hai
mông. Con đã đau, con đã nhục, con đã hiểu rằng dối trá là thói xấu và không bao
giờ con lập lại.

Mặt mẹ tôi đỏ bừng lên. Hai mắt mẹ đảo lia lịa. Rồi bỗng dưng mẹ quăng đũ xuống,
hét.
- Mày bước đi, bước khỏi nhà này... theo bà cô của mày.
Tôi đứng dậy, thu xếp quần áo, buộc lên xe. Mẹ tôi lấy cái bị cói, bỏ tât cả những thứ
thực phẩm, quà bánh cô Tâm mua cho tôi vào, treo lên ghidông, miếng nói.
- Đi đi... bước cho khuất mắt.
Tôi đạp xe vào trường. Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Mùa đông chưa qua, nhưng trời
đã ấm. Nắng rực rỡ một cách bất thường, như tấm khăn choàng thiếu nữ. Người ta đi
phố tưng bừng, vui vẻ. Không ai biết tình cảnh của tôi.

105
Những Thiên Đường Mù

Chương 18

Tôi vào trường, xin ở nội trú. Quản trị tạm ghép cho tôi ngủ cùng với một cô bạn
người Tày quê Lạng Sơn. Cô ta to béo, hai má luôn đỏ như trái đào chín, cười nói
suốt ngày. Cô giúp tôi thu xếp đồ đạc, rồi xẩm tối, cô trang điểm kỹ càng, ra đi.
- Đằng ấy cứ buông màn ngủ trước nhé. Còn khuya tớ mới về.
Nói xong cô nháy nháy mắt nhìn tôi.
- Thông cảm. Người yêu đang chờ ở cửa ký túc xá.
Cô đi. Mùi nước hoa nội địa tạt lại, sực nức. Mấy cô trong phòng cũng lần lượt đi nốt.
Tôi ngồi bó gối, nhìn ngọn đèn điện sụt thế tối lù mù như một thứ đèn hoa kỳ hạng
bét treo lơ lửng giữa phòng. Nó giống con mắt màu da cam nhìn vào mắt tôi, bệnh
hoạn, tăm tối. Bên ngoài, gió rất nhẹ, reo vi vút. Trời không rét, chỉ lành lạnh. Tôi
nhớ căn nhà, ngọn đèn với cái chao bằng sứ trắng, giá sách cỏn con của tôi. cái lọ
sành cắm mấy bông cúc vàng đặt ở góc cửa sổ... Giờ này, chắc mẹ tôi cũng ngồi bó
gối trong căn phòng trống vắng, giá lạnh nư tôi. Nước mắt tôi rơi từng giọt. Khi con
người có quá nhiều lòng tự trọng, mà buộc phải hành động thiếu lương tâm, họ
không đủ can đảm nhìn vào tội lỗi. Liên sỉ, ở khía cạnh tiêu cực, là một sợi thòng
lọng không có cơ hội tháo gỡ. Tôi biết mình thất bại...

Cuộc sống trong ký túc xá bắt đầu bằng một kỷ niệm vui vẻ. Những chuỗi ngày tiếp
theo cũng không nhiều sóng gió. Có vài ba cuộc va chạm nhẹ, nhưng bản tính tôi
không chấp nể, nên mọi kết thúc cũng tốt đẹp. Cô bạn người Tày rất đáng yêu. Một
người dễ tính, tốt bụng và có đôi phần ngốc nghếch. Cô học rất kém, tôi luôn luôn
phải chép bài cho cô. Bù lại, cô có nhiều anh chàng theo đuổi, toàn những chàng trai
đẹp mã, thân hình như tượng thần Apôlông. Chàng này tặng thơ, chàng khác làm bài
hát tặng cô. Và cô đánh số thời gian thư từ, các nhạc phẩm và thi phẩm thành bộ. Bộ
sưu tập ấy cứ một tháng một lần được đem ra khoe tôi. Tôi giúp cô làm những bài
thơ họa lại, viết những tình cavớ vẩn tặng lại, khiến đám nhân tình của cô lăn lóc mê
cô như phải bùa. Tóm lại, chúng tôi quý nhau. Về phần kinh tế, ngay từ tuần lễ thứ
hai tôi vào khu nội trú, người đàn ông đeo kính màu xanh đã đèo cô Tâm tới nơi. Từ
đó, cứ hai tuần, cô lên chơi. Tiền nong, thực phẩm cô cung cấp cho tôi thừa mứa.
Phải nói thực thà là, cả năm cô nữ cùng phòng với tôi và hội nam sinh nội trú bên
cạnh được nhờ cậy ít nhiều vào cái kho thực phẩm của tôi. Người vác bát sang xin
mỡ, người bưng ca nước sang xin đường. Có nhóm tới bữa cơm cầm chiếc camen gõ
coong cong trước cửa lán. Toi lại phải đem nồi thức ăn mặn của mình ra san sẻ.
- Hằng ơi, viện trợ bát nước mắm.
- Hằng ơi, tớ xin thìa mỡ.
- Hằng ơi, cơm nhạt khó nuốt quá. Nồi cá kho của cậu xem chừng cần san bớt đi.
Chủ nghĩa cộng sản được xây dựng trên tinh thần tương thân tương ái.
May mắn hơn nhiều bạn sinh viên khác, tôi không phải lo lắng vì miếng cơm, manh
áo. Nhưng tôi bị phân tâm vì mẹ tôi. Bất kể sự ngang trái nào, bất kể sai lạc nào, tôi
cũng là con. Và tôi yêu mẹ. Qua tin tức của những người quen, tôi biết những nỗ lực
của mẹ tôi đã có kết quả. Cậu Chính khỏi bệnh, trở lại làm việc. Một lần mẹ tôi ốm,
cậu mợ ấy đã đèo nhau tới chơi. Lần ấy, mẹ cũng bày biện trà thuốc, bánh kẹo, mời
cô Vị và đám láng giềng sang để giới thiệu vợ chồng người em trai.
- Cậu ấy là cán bộ tư tưởng của Đảng và mợ ấy là giáo sư trường Đoàn.
Đứa con gái cô Vị kể lại với tôi, mẹ đã sung sướng biết bao khi giới thiệu những
người ruột thịt của mẹ như thế, trước đám dân lao động trong ngõ phố. Nghe
chuyện, tôi tạm yên tâm. Tôi mừng cho mẹ. Dầu sao, con người cũng nên có một cái
lý để tự hào. Nhưng tôi không thể nén cảm giác tủi cực, có đôi phần uất ức. Chính
họ, chính những người đem cho mẹ niềm vinh hạnh ấy là duyên cớ sự chia rẽ trong

106
Những Thiên Đường Mù

gia đình chúng tôi. Và, chui vào một góc tối trong học đường, ngồi giữa những hàng
ghế thênh thang, bụi bặm, tôi mơ đến mái nhà vá víu của mình. Tiếng mưa rỉ rách
gõ trên mái tôn. Âm điệu xôn xao của buổi lê minh, khi chân trời chưa rạng, khi tiếng
gọi í ới, tiếng mắng chửi con cái, tiếng sai bảo công việc cùng lúc vang lên, ném qua
các bức tường, hòa với mùi thơm của các món ăn sáng, tạo nên bầu không khí quen
thuộc với tôi từ thuở ấu thơ. Tôi mơ tới giàn hoa đăng tiêu cháy như lửa, ngạo nghễ
và chói chang giữa khóm nhà lô nhô, giữa những bức tường cắm mảnh chai bẩn thỉu
và gớm ghiếc, như một bài ca khát vọng quá mãnh liệt trào lên trên ngọn triều bèo
bọt của đời thường. Tôi mơ đến tiếng hát khàn và sai lạc của anh què, nghe như
tiếng đổ vỡ, tiếng kêu, lời mời gọi. Tôi mơ tới một que kẹo mạch nha...

Học kỳ ấy tôi được xép hạnh sinh viên ưu tú, Cô Tâm may cho tôi hai chiếc áo bằng
hàng mútxơlin ngoại, một chiếc màu lòng tôm, một chiếc xanh da trời. Ai cũng khen
tôi mặc áo mới, trông trẻ và xinh hẳn ra. Cô Tâm im lặng nghe những lời khen ấy,
với vẻ mặt đăm chiêu. Chắc cô đang tính xây cho tôi một thiên đường ngay ở cõi trần
ai này. Cô đổi chiếc xe nữ Thống Nhất cũ rỉ tôi vẫn đi bằng chiếc xe Mifa mới. Cô
định mua xe Pơgiô cho tôi nhưng may sao, người đàn ông đeo kính màu xanh chai đã
kịp gàn.
- Không phải em tiếc cháu. Nhưng con gái đi xe đắt tiền chỉ làm mồi cho bọn bất
lương.

Cô nghe theo, nhưng cô vẫn đánh một sợi dây chuyền vàng tây bắt tôi đeo.
- Nam vô tửu bất thành nam, nữ bất điểm trang bất thành nữ.
Cô nói thế. Rồi cô xuống một làng ngoại thành đóng cho tôi một lúc ba đôi giày. Thứ
có gót, thứ hở gót, thứ quai tết không khóa cài. Nhưng có một nguyên tắc, không
bao giờ cô đưa quá nhiều tiền cho tôi. Vàng cũng thế. Tôi ít ra thành phố, thường lúc
rỗi tôi chúi mũi vào thư viện đọc sách. Chưa nhận lời yêu ai, tôi không ham đi xem
chiếu bóng, xem xiếc, rong chơi. Tiền đối với tôi dường như không cần thiết. Và thế,
món trợ cấp hàng tháng của cô cứ dồn tích lại. Tôi định khi nào mẹ nguôi giận tôi sẽ
đem món tiền ấy về, thay lại mái nhà cũ. Nếu không đủ đổ mái bằng, tôi cũng lợp
ngói Tây. Nhưng trái với dự tính của tôi, món tiền ấy đã được dùng vào việc khác.

Ấy là một chiều xuân, tháng hai, mưa phùn rắc đầy trời. Ánh chiều tím sẫm, lọc qua
mưa, bảng lảng như khói. Chúng tôi ngồi trong phòng, vừa tí tách ăn hạt bí, vừa tán
chuyện hôm trước, lớp trướng của chúng tôi cưới vợ. Anh ta là bộ đội chuyển ngành,
33 tuổi, xấu mã nhưng rất tốt bụng. Một người chính trực, công bằng. Trong lớp, kể
cả những chàng trai ngang ngược nhất, kể cả những cô gái chỏng lỏn, hoặc lười học
ham chơi, hoặc đôi co mách lẻo, hoặc có thói ăn cắp vặt... những người bị anh đề
nghị kỷ luật cũng không thù ghét được anh. Sáng qua, mưa phùn dầm dề. Cả lớp đội
mưa, bì bõm lội qua một khúc đường sống trâu để vào dự đám cưới. Làng anh ở Vĩng
Phú, vùng đồi xinh tươi nhưng nghèo khó. Đám cưới có cả kẹo nuga, kẹo Hải Hà, cả
kẹo bột và chè lam nhà tự nấu. Hạt bí anh phải mua từ Hà Nội đem về. Cô dâu ở
làng, một thôn nữ khỏe mạnh, lưng to chân to. Hai má không cần đánh phấn cũng
đỏ rực. Đám cưới vui.

Chừng bảy tám giờ tối, lũ chúng tôi mới mò mẫm ra ga, trở về Hà Nội. Cô dâu chú rể
quần xắn ngang bắp chân theo ra ga đưa tiễn. Hai người dúi cho chúng tôi một gói
hạt bí, một bọc chè lam, lại cả một đùm bánh khoai bánh nếp. Con tàu chạy suốt
đêm. Chúng tôi vừa phải chống đỡ đám hành khách lôi thôi tràn trên các ga lẻ, vừa
rôm rà chuyện trò.

Gần sáng, tàu mới tới thành phố. Kéo nhau về khu học xá, cả bọn lăn ra ngủ. Nhưng
khi cơn buồn ngủ đã được thỏa mãn, chúng tôi lại cảm thấy phấn khích, lại tụ tập

107
Những Thiên Đường Mù

nhau cắn hạt bí, tán chuyện. Đối với tuổi thanh xuân, đám cưới, hôn nhân, tình yêu
là đề tài bất tận. Mội cô nàng chợt hô lên.
- Sắp hết hạt bí rồi.
Cả đám nhao nhao nói.
- Đề nghị tiếp tục trợ cấp.
- Tới lượt ai?
- Ninh, tới lượt cái Ninh. Ba lần trước nó đều đánh trống lảng. Ê, Đào Thị Ninh, xùy
tiền ra. nay đã tới phiên nhà ngươi nộp thuế thân.
- Nhưng mà đến hôm nay mỗ lại hết tiền... Ha ha ha... may thật là may.
Đào Thị Ninh, một cô gái quê Hải Phòng, to béo, đen mập, sống mũi gồ to như con
trai nhâng nháo nói. Nói xong, cô nàng lại đứng phắt lên, ngay giữa đám đông lộn
hết các túi áo túi quần. Mấy cậu bạn trai nhăn mũi.
- Hắt xì hơi, mất vệ sinh.
- Thôi, ngồi xuống, đàn bà con gái gì mà...
Ninh liền túm tóc cậu con trai vừa nói lên.
- Mà làm sao, nói tiếp?
Cậu bạn cười cười, cố gỡ mái tóc uốn quăn chùm nho khỏi bàn tay cứng như thép
của nữ lực sĩ. Ninh hỏi.
- Nói mau, không ta cho một chưởng.
Cậu bạn chớp mắt, rồi đánh liều.
- Mà mà... thơm như hoa nhài vậy.
Cả bọn rũ ra cười, nước mắt giàn giụa, cười xong, chừng vẫn nhớ rằng hạt bí sắp
hết, mà câu chuyện đang giòn. Tất cả quay lại Đào Thị Ninh.
- Mày đích thị là đồ hủi. Lần nào phải nộp phạt mày cũng hết tiền.
Ninh cười ha hả.
- Số mỗ luôn luôn may. Thần tài phù trợ cho mỗ.
Đoạn Ninh khoa chân múa tay, hát tuồng.
- “Như ta đây, chẳng phải dân Nghệ An, Hà Tĩnh nhưng thánh keo cũng gọi bằng cụ
tổ. Năm một hội, tháng hai kỳ, dân con miền Trung xì xụp khói hương, lễ bái ta, ta
phù hộ độ trì cho muôn dân xứ ... keo...”

Một cô bé quê ở Hải Hưng rú lên trước, rồi cả bọn cứ thế mà cười theo. Lần này, đứa
nào đứa nấy ôm bụng bò lóp ngóp trên giường, lũ con trai chổng cả vó lên, giãy đành
đạch. Từng cơn cười kéo tới, không kiềm chế nổi, từ người nọ lây lan sang người kia.
Phải 10 phút sau, chúng tôi mới hoàn hồn. Tích, một anh chàng quê Nghệ An, vừa
lau nước mắt vừa nói.
- Tổ cha mi, mi vào quê tao xem mi có dám hát thế không?
Ninh đáp lại liền.
- Tổ cha mi, tau mà vào quê mi tau thành triệu phú.
Tích thật thà quay lại hỏi.
- Sao vậy?
- Tau thuê thợ tiện, tiện một ngàn con cá gỗ. Đem sơn vàng, sơn đỏ, vào quê mi bán
giá thắt cổ, tau thành triệu phú liền.
Tích vỡ lẽ, giơ nắm tay đấm Ninh. Ninh chạy. Hai người đuổi nhau mấy vòng liền.
Rồi, sau đó, Ninh giơ tay đầu hàng.
- Kéo cờ trắng.
Cả hai về chỗ ngồi, thở hổn hển. Lúc ấy, Đào Thị Ninh quay sang bảo tôi.
- Ê, nhà tài phiệt mặc quần thâm, xì tiền đi mày.
Tôi bảo.
- Cũng được. Nhưng mày phải đi mua. Trời mưa, tao ngại lắm.
Ninh liền trợn mắt quát:
- A, ra mày cậy có tiền, mày muốn ngồi nhà phải không?
Tôi đáp:

108
Những Thiên Đường Mù

- Tất nhiên, ông mất của kia, bà chìa của nọ.


Cô gái lực sĩ liền túm lưng áo tôi, nhấc bổng lên.
- Này, đây là luật của bạn bè, nghe không ? Mặc áo mưa vào và đi ngay tắp lự. Mày
giở thói bà chủ ra, mày sẽ bị tống cổ khỏi hội ngay.

Tôi nghĩ, Ninh cũng có lý. Vả lại, không ai có thể khuất phục cái con bé nặc nô ấy.
Bụng tức, nhưng tôi vẫn phải trùm áo mưa đi. Ở cổng trường, có một dãy hàng quán.
Tới đó, có thể mua từ hộp sữa ngoại tới vài cái kẹo vừng hoặc mấy nắm bỏng ngô.

Sân trường lầy lội. Khu nội trú càng lầy lội hơn. Những viên gạch ném trên lối đi
chìm nghỉm trong lớp bùn nhão. Đám cỏ loi phoi nhú ngọn lên. Tôi bước từ viên gạch
lát này sang viên gạch lát kia, cố gắng không trượt chân dẫm xuống nước. Chú tâm
vào việc đó, tôi không biết có một người đang đi ngược lại phía mình.
- Hằng!
Tiếng gọi giật giọng khiến tôi giật nảy, ngẩng mặt lên. Cách tôi vài bước chân là cô
Vị. Cô trùm tấm nilông xám, dài ngang khoeo chân. Quần đen xắn tới bẹn. Đôi chân
trần lội trong bùn. Một tay cô giữa tấm vải che mưa, tay kia xách đôi dép.
- Cô tìm cháu suốt từ lúc tan tầm.
Tôi nhìn gương mặt đầm đìa nước của cô.
- Lâu quá cháu chưa về nhà... Có chuyện gì thế cô?
Cô cũng đăm đăm nhìn tôi, rồi thay vì trả lời, cô nói một câu chẳng ăn nhập gì vào
câu chuyện.
- Mày có lớn mà chẳng có khôn, Hằng ạ...
Xung quanh chúng tôi là khoảng sân láng nước, mấp mô các gờ đất, các lối đi rải sỏi.
Không nơi nào trú chân được. Tôi nói với cô.
- Cô quay ra cổng trường với cháu. Ở đó, có quán hàng.
Cô gật đầu.
- Ờ.
Rồi chúng tôi im lặng đi về phía cổng trường. Mươi phút sau, tôi đưa cô vào quán bà
Nhu, một bà chủ quán quen thuộc. Nhiều lần cô Tâm lên, cô cháu tôi thường ra ăn
quà ở đó. Bà Nhu đang ngồi ngáp, đon đả cất tiếng chào. Rồi bà chỉ cho chúng tôi
khúc tre thừa đầu quán, đề móc mấy tấm vải che mưa. Những chiếc ghế băng lấm
bùn. Tôi mượn bà Nhu mảng giẻ lau. Bà hỏi.
- Cô Hằng ăn gì?
- Cháu xin bà hai chén chè nóng với đĩa bánh đậu xanh.
Bà Nhu rót hai chén chè Thái xanh vào chén vại, rồi đặt một gói bánh đậu xanh lên
chiếc đĩa hoa Hải Dương.
- Bà với cô tự nhiên nhé, Cho tôi vô phép...
Sau khi nói một cách lịch sự, bà co hai chân lên ghế tựa lưng vào vách, ngủ gà ngủ
gật. Cô Vị uống một hơi hết cả chén nước, có lẽ cô đang lạnh. Rồi cô hỏi.
- Sao hôm đi, không rẽ vào cô?
- Mẹ cháu đuổi cháu đi tức khắc. Vả lại, lúc ấy cháu không nghĩ ra.
- Lúc ấy, cô còn ở nhà. Hàng chưa đủ gánh. Giá cô biết thì không đến nỗi.
Cô thở dài sườn sượt. Tôi ngồi im. Tốt nhất là im lặng và đợi. Những năm tháng sống
cô đơn dạy tôi điều ấy. Cô Vị lại uống nốt chén chè thứ 2, và nói.
- Mẹ mày khổ lắm.
- Nhưng cháu cũng có sung sướng gì đâu?
- Đã đành, nhưng mẹ vẫn là mẹ.
- Bao giờ cháu cũng yêu mẹ cháu.
- Trời đầy bà ấy.
- Chính mẹ cháu đã đuổi cháu đi.
- Phải, cô biết... Nhưng mẹ mày không muốn thế.
- Không muốn?

109
Những Thiên Đường Mù

- Phải, không muốn, nhưng vẫn cứ làm. Ở đời, nhiều khi như vậy. Bao giờ cháu lớn
lên, từng trải hơn khắc biết. Chẳng phải đương nhiên, nhân gian có câu: ma đưa lối,
quỷ đưa đường.

Tôi mở chiếc nắp bông ủ trên tích nước chè, rót chén thứ ba cho cô. Chén chè nóng
giãy. Cô đưa hai bàn tay ủ chén nước cho đỡ rét. Tôi nói.
- Cô bán hết hàng chưa?
Cô gật đầu.
- Bán hết hàng vừa tan tầm. Cô gửi quang gánh cho người quen rồi đi ô tô tới đây.
Uống nốt chém chè thứ ba, cô đứng dậy.
- Đi đi cháu.
Tôi ngạc nhiên hỏi.
- Đi đâu?
- Mẹ mày què chân rồi. Bị ô tô chèn sáng nay, khi gánh hàng qua đường. Lúc cô biết
tin trời đã non trưa, người ta đã đưa bà ấy vào viện. Bác sĩ phải tháo khớp gối. Đi đi
cháu, bà ấy nằm trong bệnh viện Bạch Mai.
Tôi không nhớ mình đã làm gì lúc ấy. Chân tay tôi giá lạnh, như bị chuột rút, tôi ngã
vào bàn bày bát chén, bánh trái của bà chủ quán. Cô Vị đỡ tôi lên, trả tiền, nói gì đó
thì thầm với bà chủ quá. Rồi bà chủ quán đội áo mưa le te chạy đi. Lát sau, bà quay
về với chiếc xích lô. Chúng tôi cùng lên xe. Người lái xe kéo chiếc nón lá già che kín
mắt, cắm cúi đạp. Đường gồ ghề, xóc nảy, mỗi lần xe xóc, lại vòng hào quang nảy ra
trong mắt tôi. Một cơn rét run từ xương tủy lan tỏa ra da thịt. Cô Vị ôm tôi, khẽ đập
vào vai.
- Khóc đi, khóc đi cho nhẹ.
Tôi không khóc được. Dường như tiếng khóc vón thành cục nước đá nằm trong họng.
Dường như máu cũng đông thành một thứ tiết đặc trong các huyết quản tôi. Mắt tôi
tối dần, cùng với bóng tối. Trời vẫn mưa. Mưa xiên lệch cả đất trới. Cái cổng vào viện
trống toang hoác như cửa nhà mồ. Cô Vị đã phải năn nỉ mãi, người gác mới cho
chúng tôi đi qua. Hành lang... Những giường bệnh... Những gương mặt xa cách và
sầu não... Sau cùng là mẹ tôi...
- Mẹ ơi!
Tôi gọi. Và nước mắt trào ra như nước suối, nóng hổi, mặn, chảy tràn trên hai gò
má, lan xuống cằm, rơi thánh thót. Bỗng dưng, khối tiết đông đặc trong tôi tan chảy
thành các dòng máu. Cục đá trên tim tan chảy thành từng giọt lệ. Người tôi nhẹ bổng
đi.
- Mẹ ơi!...
Mẹ tôi quay ra, giơ một bàn tay cho tôi, mỉm cười. Nhưng môi mẹ méo xệch. Rồi
nước mắt cũng tuôn đầm đìa trên gò má những vết nám và những vết tàn nhang.
Chân mẹ quấn đầy băng cụt ngang gối.

110
Những Thiên Đường Mù

Chương 19

Có tiếng ai gọi trong sương mờ. Sao giọng nói xa lạ? Tôi định mở mắt nhưng không
được. Tiếng gọi lặp lại lần thứ hai :
- Dậy đi cô bé, tới nơi rồi.
Bàn tay cứng cáp của một người đàn ông nào đó lắc vai tôi. Tôi choàng dậy:
- Chào cô bé, hết khóc chưa?
Người đồng hành cười, những chiếc răng bạc lóe lên. Chiếc mũi khoằm của ông ta giờ
đây không còn làm tôi khó chịu. Giơ ngón tay trỏ, ông quệt nhẹ vào má tôi:
- Hãy còn nước mắt đọng đây nhé. Tôi hy vọng là ra ngoài gió nó sẽ khô.
Tôi sực nhớ cảnh toa tàu đêm qua, hai gã trai thô bạo, cơn tủi cực tràn đầy con tim
nhỏ bé của tôi. Tôi đã nức nở mãi trong mơ. Người đàn ông sắp xếp hành lý:
- Chuẩn bị xuống ga đi, cô bé. Chỉ còn một hai phút nữa thôi.
Mátxcơva đã ở bên ngoài. Qua ô cửa, tôi thấy khung cảnh quen thuộc của nhà ga.
Các đường ray, các mái trú tạm, kè xi măng đón khách chạy giữa các tuyến đường.
Các cụm đèn tín hiệu. Các nhân viên nhà ga lặng lẽ đi lại. Trên một mái nhà lợp đá
đen xa xa, lũ bồ câu đứng hiền lành.

Tiếng còi tàu rú lên. Ở nơi nào trên trái đất, tiếng còi tàu cũng thế. Người đồng hành
nắm cánh tay tôi:
- Mặc áo vào cô bé. Và đưa chiếc túi tôi đeo cho.
Không chờ tôi trả lời, ông ta khoác luôn chiếc túi du lịch của tôi vào vai, trông ông
thật giống một con ngựa thồ. Thứ ngựa vùng sa mạc, gân guốc và thanh mảnh.
Chúng tôi cùng đi ra ga, trông như hai cha con người Trung Á về thủ đô, hòa vào
dòng người đông đúc. Thỉnh thoảng, người đàn ông cúi xuống nhìn tôi, vẻ như ủ ấp
và che chở. Cái nhìn của ông takhiến tôi nao lòng. Trong ký ức của tôi, biết bao lần
ánh mắt che chở như thế đã hiện về, giữa những trưa hè oi ả, giữa đêm lạnh gió mùa
đông bắc ù ù thổi, giữa những cơn mưa thu dầm dề... khoảng thời gian dài rộng đã
được đan nối bằng quá nhiều giấc mơ non yểu viển vông và quá nhiều nỗi khao khát.
Thỉnh thoảng, người đàn ông lại cầm bàn tay tôi, bóp nhẹ. Tôi nhìn ông ta với lòng
biết ơn.

Nhưng phút giây hạnh phúc ngắn ngủi rồi cũng hết. Chúng tôi chia tay nhau trước
sân ga. Người đàn ông cúi xuống, nói dịu dàng:
- Rất tiếc, cô bé nhé. Tôi phải đến nơi hẹn bây giờ. Tôi không thể đưa cô đi.
- Cảm ơn ông rất nhiều. Tôi biết tất cả các ga xe điện ngần của thành phố.
Ông ta nghiêng đầu cười:
- Cô bé nói tiếng Nga giỏi hơn tôi. Tôi ở...
Ông ta đọc một tên thành phố nào đó chưa từng biết. Có lẽ, nó không được ghi trên
bản đồ.
- Một lần nữa, chào nhé. Hãy đi, và đừng để ai bắt nạt.
Ông ta ghì lấy tôi, hôn lên tóc rồi quay đi. Ông ta qua đường hối hả. Tôi cũng bước
đi, hối hả. Tôi tới ga xe điện ngầm gần nhất.

Đừng bao giờ quay lại nhìn, dù một thoáng.


Vì phút giây hạnh phúc sẽ vỡ tan.
Vì phía trước, con đường sẽ trở nên lạnh lẽo...

Những câu thơ tự dưng vang dội trong óc tôi. Như có thi sĩ nào đó, vớii giọng ngâm
bốc lửa đang đọc chúng trong một căn phòng vắng.

111
Những Thiên Đường Mù

Tới ga xe điện ngầm, tôi đáp chuyến đi thứ hai trong ngày. Toa tôi ngồi có chừng
trên một chục khách, Họ vừa đọc báo, vừa nhai bánh mì kẹp thịt. Có lẽ họ từ một
nhà máy nào vừa đi ra, Tới ga thứ ba , bọn họ xuống hết. Còn một mình tôi. Tôi
ngắm mình trong tấm kính đối diện, lấy lược ra chải lại tóc. Rồi rút bánh trứng trong
túi du lịch, ăn. Lần này khôn ngoan hơn, tôi phải chuẩn bị đồ ăn từ nhà. Giá có một
chén chè nóng với lát chanh thì tốt. Ăn xong, tôi mở sổ ra xem địa chỉ. Năm trước,
cậu Chính cùng đoàn công tác đi ngắn ngày, ở khách sạn năm Rátxia. Lần này cậu
xin đi tập huấn bốn tháng, ở trường Đảng Aôn, ngoại thị. Không hiểu sao, người ta
cho một ông già ngót nghét 60 tuổi như cậu đi học? Có lẽ, đó là một trong những
chính sách tuyệt diệu nhất. Sực nhớ gương mặt cậu trong lần gặp gỡ trước, tôi không
khỏi mỉm cười.

Chuyền tàu mấy lần, tôi mới tới được nơi cậu ở. Aôn đây là trường học được biệt ưu ở
nước Nga. Không có một trường học nào được dành cho mọi sự thuận tiện về sinh
hoạt, phương tiện học tập và giao tiếp như ở đây. Tôi đã nghe nói nhiều về nó. Tôi
biết ở đây, mỗi học viên được sử dụng một phòng, điều mà sinh viên các trường
khác, kể cả đại học Lômônôxốp không dám mơ ước. Tôi hy vọng được vào căn phòng
riêng của cậu, để uống một chén chè nóng pha đường. Nhưng người ta báo cho tôi
biết cậu không có nhà. Tôi hỏi:
- Cậu tôi, ông Đỗ Quốc Chính nằm bệnh viện?
Người trực ban ngạc nhiên nhìn tôi:
- Viện nào? Đồng chí ấy gửi cho chúng tôi mảnh giấy này.
Một mảnh bìa nhỏ, trên đó ghi vài dòng chữ Việt:
“ Hằng có đến, tìm cậu ở nhà anh Khoa, nghiên cứu sinh ở...”
Giờ, tôi không nhớ rõ địa chỉ ấy. Nó ở gần đại lộ Lômônôxốp mang tên nhân vật có
họ Ulivanốp, có lẽ là em của Lênin. Một tòa nhà cao tầng, kiến trúc tầm thường, kiểu
kiến trúc phổ thông sau thế chiến thứ hai . Cửa chính tòa nhà giáp một cửa hàng
bách hóa cỡ nhỏ. Trong đó, người ta bán một số đồ dùng lặt vặt như cốc chén, thìa
nĩa, xoong nồi, bàn chải răng, các loại xà phòng thơm và xà phòng giặt... Có cả bơ,
cả phómát. Nhưng lớn nhất là quầy bia rượu. Người bán hàng, một ông già cao lớn,
vạm vỡ, mặc áo blu trắng, đội mũ trắng. Ông đi đi lại lại sau các quầy hàng, lấp lánh
đủ thứ chai rượu và các giấy trang kim, trông như một trái núi tuyết di động. Khách
mua hàng rất đông, từ chai nước quả chục kôpếch đến chai cônhắc nhãn năm sao
mấy chục rúp. Ông giao hàng và nhận hàng cùng với dáng vẻ vô cảm như nhau. Đôi
mắt của ông còn rất trong, xanh lơ, đưới hai tràng mày bạc trắng. Hai bàn tay to,
rắn rỏi, với những vết đồi mồi lớn và các đường tĩnh mạch nổi phồng lên. Tôi đã đứng
sau lưng đám người mua hàng, nhìn ngắm ông rất lâu.

Trong khoảng thời gian đó, tôi bị giằng co giữa ý nghĩ bước vào khu nhà xa lạ kia và
trở lại ga, lên tàu về tỉnh lỵ của chúng tôi. Rõ ràng, cậu Chính không ốm. Cậu đã bịa
ra cớ ấy để gọi tôi lên Mátxcơva. Không lẽ bên nhà có tin đột xuất? Nếu có, hẳn mẹ
tôi đã đánh điện thẳng cho tôi. Từ ngày bị cụt một chân, không còn đi lại xông xáo
được. mẹ đã ngồi ở nhà, mở quán bán chè chén. Khung cửa sổ của chúng tôi đã được
đục to thêm, trát xi măng phẳng phiu. Để tạo thành một khoảng không gian rộng
rãi. Ở ô cửa ấy, mỗi sáng mẹ ngả tấm ván gỗ có chân chống xuống, biến thành chiếc
bàn bán hàng. Gáng hàng khô xưa đã bán hết. Vốn buôn cụt dần đi, chỉ còn đủ mua
vài chiếc lọ thủy tinh lớn nhỏ đựng lạc, kẹo vừng, thuốc lá cuốn rẻ tiền, bánh đậu
xanh và bánh rán không nhân bán dỗ trẻ con, chừng một chục chiếc chén vại Bát
Tràng. Dăm túm bánh chưng và bánh gai của các hàng bán đem gửi. Một ấm chè
Thái ủ trong giỏ lót bông. Thêm chiếc điếu cày là đủ lệ bộ. Khách đa phần là dân
trong ngõ. Họ bán hết gánh bún xong, trở về ngồi ăn chiếc bánh chưng, hoặc bán
chè rồi tới ăn chiếc kẹo vừng cho lạ miệng. HọÏ đi nhặt những đồng bạc lẻ, nhàu nát
của dân thành phố, rồi đem về ngõ xóm nuôi nhau. Có khi, uống một chén chè chiếu

112
Những Thiên Đường Mù

lệ, họ ngồi chuyện vãn với mẹ tôi cả buổi. Và mẹ tôi, cũng bòn những đồng bạc lẻ
của họ, bỏ vào chiếc bị cói nhỏ, như người ta làm một nghĩa vụ không hào hứng bao
nhiêu. Số tiền lời ấy, mẹ có thể mua đủ xuất gạo. Dương nhiên, tiền ăn tiêu trông cả
vào những hòm hàng gửi qua tàu biển hoặc bưu kiện của tôi. Cuộc đời sinh viên của
tôi đã kết thúc, kể từ buổi chiều xuân mưa dầm dề, khi người hàng xóm tới báo cái
tin độc địa...

Giờ đây, tôi tới thăn cậu Chính làm gì? Người mà tôi bị trói bởi một mối liên quan
không thể tháo gỡ. Ông già bán rượu vẫn đi lại trước mặt tôi, luôn tay giao hàng.
Dáng đi của ông bồn chồn như con gấu đợi mồi. Tia nhìn chậm rãi, nhưng đôi mắt
còn rất trẻ, rất xanh. Những người khách mua hàng xong đều lặng lẽ ra đi. Ngay
trước cửa hàng, là bến xe buýt. Xe tới, xe đi, hầu như không có tiếng động. Khác hẳn
Hà Nội, một thành phố luôn luôn bị lên cơn co giật thần kinh bởi những tiếng còi xe
hỗn độn, man rợ. Thêm vào đó, là tiếng pháo nổ bất thường, không cần luật lệ và
tiếng rú thất thanh của một gã say rượu hứng chí hoặc của một vụ cãi cọ, đánh đấm
nhau. Những người dân Nga im lặng xếp hàng, mua hàng, im lặng ra bến xe chờ đợi,
im lặng lên xe. Những con người hiền lành, tuân thủ luật tắc. Trong cái trật tự của
đời sống ở xứ này, hàm chứa cái gì đó trì đọng. Một thứ an bình của làn nước hồ
không gió bão, không luân chuyển. Một thứ êm ả của núi cao, của cỏ cây trong
thung lũng, làn không khí trong trẻo nhưng thiếu dưỡng khí cho sức triển nở, sức
sáng tạo và sự thăng hoa của con người. Nhưng dẫu sao, nhìn những người dân với
vẻ mặt êm hòa, nhiều chịu đựng ấy, tôi vẫn thấy họ đã được nhào nặn qua một từ
trường của văn hóa, của một xã hội chí ít cũng tạo nên những thành trì của văn minh
vật chất và tinh thần.

Xe buýt đã tới. Đám người đứng chờ trong trạm ghép gỗ nối nhau lên. Họ không
chen lấn, xô đẩy. Lúc này, tôi phải quyết định: nhảy lên xe buýt ra ga hoặc vào khu
nhà kia. Một chàng trai từ trong cửa hàng chạy bổ ra, va phải tôi. Anh ta ngoái cổ
lại:
- Xin lỗi nhé.
Rồi sải những bước chân rất dài, anh ta lên xe. Hai nách kẹp hai chai rượu. Chai thứ
ba thò thò lên từ miệng túi quần. Tôi đang nhìn anh, xe đã lăn bánh. Tôi thầm nghĩ:
- Trễ rồi.
Vậy là trời đã bắt ta phải gặp cậu Chính thêm lần nữa. Tôi đi ngược lên chừng 50
thước. Ở đó, cổng ngôi nhà đã khép kín. Tôi đành đi vòng lại cổng sau, ở phố bên
kia. Trước cổng này, có một đám đông thanh niên. Họ đứng túm tụm lại, nhưng rất ít
chuyện trò. Hóa ra họ ăn kem. Quày bán kem ngay gần đó thụt sâu vào một khu
vườn. Có khoảng trên một chục người đang xếp hành trước khuôn cửa gỗ hình tổ tò
vò, chờ mua kem. Đa số là người Việt. Tôi chắc họ là những nghiên cứu sinh hoặc
cán bộ thực tập trong ngôi nhà kế đó. Tôi chọn người đàn ông tóc muối tiêu, mặc
complê màu xám nhẹ, sơmi trắng có đường thêu hoa văn dọc từ vai xuống gấu để
hỏi thăm:
- Thưa chú, trong nhà này có anh Khoa, nghiên cứu sinh năm thứ hai không ?
Người đàn ông tóc muối tiêu ăn mốt miếng kem cuối cùng, rút mùi xoa lau miệng,
lau tay rồi hỏi lại:
- Khoa nào? Trong nhà này toàn các nghiên cứu sinh cả. Người nhà em làm luận án
về môn gì?
Tôi im lặng. Lúc ấy, tôi chưa kịp nghĩ tới địa chỉ cụ thể của cái ông nghiên cứu sinh
tên là Khoa kia. Tôi vẫn nghĩ, đám người làm luận án phó tiến sĩ chắc không bao
nhiêu và họ quen biết nhau cả. Người đàn ông chăm chú nhìn tôi và hỏi:
- Em ở xa mới về Mátxcơva, đúng không?
- Vâng. Xa lắm.
- Tiếc cho em quá. Ở đây có Khoa Điện-cơ, Khoa Sinh-Hóa, Khoa Ngữ-văn. Nghĩa là

113
Những Thiên Đường Mù

chừng ấy ông Khoa được gắn liền với môn khoa học làm luận án thành biệt hiệu.
- Cháu có địa chỉ của anh ấy.
Tôi đáp và đưa cho người đàn ông tấm bìa. Ông ta đọc, rồi đưa mắt nhìn tôi rất
nhanh. Tôi không đoán được ý nghĩa của cái nhìn đó. Nhưng tôi biết chắc chắn nó
hàm chứa một hiện thực không bình thường. Người đàn ông nói:
- Khoa Sinh-Hóa. Tôi có thể đưa em đếxn tận nơi. Em có mang đủ giấy tùy thân theo
không ? Ở đây, người ta nguyên tắc máy móc lắm.
Tôi gật đầu:
- Cảm ơn chú. Cháu chuẩn bị rồi.
Người đàn ông giúp tôi xách túi du lịch. Ông ta bước lên bậc tam cấp, đẩy cánh cửa
gỗ luôn khép kín cho tôi vào. Qua một phòng gỗ hẹp ngăn cách giữa cửa lót bên
trong, như kiểu kiến trúc thông dụng các tòa nhà ở đây, chúng tôi bước vào gian tiền
sảnh. Đó là một căn phòng rộng, có những chiếc ghế gỗ cũ và xoàng xĩnh kê sát
tường cho người lên xuống ngồi chờ. Một tấm bình phong giá ghép bởi các khung gỗ
có căng vải sơn vẽ hình trang trí, ngăn cách gian tiền sảnh chính rộng hơn. Bên trái
gian tiền sảnh, một phòng trực ghép gỗ, khung cửa vuông. Một ông già ngồi trực bên
trong. Ông đang đọc sách chăm chú, mái đầu trắng phơ cúi xuống, những chòm lông
bạc đâm tua tủa từ hai lỗ tai lớn ra hai bên. Người đàn ông tóc muối tiêu bước tới gõ
gõ vào khuôn cửa gỗ. Tôi chắc ông lão nặng tai. Quả nhiên, người đàn ông gõ tới lần
thứ ba , ông mới ngẩng lên:
- A... Có việc gì vậy?
Ông hỏi với giọng nặng và trầm, không giống giọng nói của dân Mátxcơva. Thay vì
trả lời, người đàn ông hỏi lại, với cách phát âm và ngữ điệu Nga một trăm phần
trăm.
- Bố già lại vùi đầu vào sách. Ai vậy?
Ông già lật tấm bìa lên. Đó là cuốn Chàng Ngốc của Đốtxtôiépxki. Người đàn ông tóc
muối tiêu xốc cổ áo nói:
- Con người khổng lồ của nước Nga.
- Đúng, đúng.
Ông già dật đầu tán thưởng với một niềm hân hoan sâu sắc. Ông chìa bàn tay hồng
như bị cước, đầy những vết đồi mồi ra bắt tay người đàn ông tóc muối tiêu. Họ gật
gù nhìn nhau. Sau đó, người dẫn đường của tôi nói:
- Có một cô bé từ tỉnh xa tới, cần gặp anh Khoa Sinh-Hóa. Giấy tờ của cô ta đây. Bố
già vào sổ giúp cho.
Ông ta đưa giấy tùy thân của tôi cho ông già. Rồi quay lại vẫy tôi lên:
- Cô bé ấy đây.
Ông già đưa mắt nhìn tôi một cách nghiêm khắc. Sau đó ông lấy cuốn sổ trực to
tướng, cẩn thận mở ra, ghi tên họ và số giấy tùy thân của tôi vào những hàng cột
dọc. Ghi chép xong, ông bỏ tất cả vào ngăn kéo và gật đầu nhìn tôi:
- Đi đi.
Tôi cúi chào ông, bước đi. Ánh mắt của ông vẫn đuổi theo, tôi linh cảm thấy điều đó.
Nhưng tôi không dám quay lại nhìn. Chúng tôi vào buồng thang máy, lên tầng tư, tới
tận cửa sổ nhà của ông nghiên cứu sinh tên là Khoa.
- Đây rồi.
Người đàn ông tóc muối tiêu nói. Chúng tôi cùng đứng lại. Một lần nữa ông ta đưa
mắt nhìn tôi, cái nhìn hàm chứa điều bí ẩn nào đó. Hình như ông ta định nói, nhưng
sau phút giây lưỡng lự, lại thôi.
- Tôi đã làm xong phận sự với em rồi. Thôi, xin chào.
Ông ta chìa tay ra:
- Và chúc mọi sự bình an.
Đó là lời nói sau chót. Người đàn ông quay đi, và biến mất ở khúc rẽ của hành lang.
Tôi gõ cửa, chuẩn bị tinh thần để gặp một người đàn ông xa lạ. Nhưng người mở cửa
chính là ông cậu tôi.

114
Những Thiên Đường Mù

- Cháu Hằng, vào đây. May quá, cậu mong cháu từ chiều hôm qua. Ở đàng Aôn,
người ta có nhắn gì cậu không?
Tôi bước vào, lẳng lặng treo áo, lẳng lặng ngồi xuống ghế rồi đáp:
- Cháu không gặp ai cả. Người trực ban đưa cho cháu mảnh giấy này.
- Thế hả, thế là tốt.
Cậu nói, và thở phào. Lúc ấy, tôi mới nhìn cậu. Một tay cậu cầm con dao lưỡi to bản,
chắc đang thái thịt. Bụng cậu quấn tạpdề làm bếp. Chân cậu đi dép lê của đàn bà,
thứ dép thêu từ Việt Nam xuất khẩu sang, bán có hai đồng rúp một đôi. Căn phòng
vắng, chủ nhân nó đã để lại chiếc giường với đống chăn gối nhàu nát, chưa thu dọn.
Tấm vải trải xiên lệch, bên mép đầy những vét chùi chân. Đầu giường treo tấm áp
phích quảng cáo quần lót phụ nữ của HàLan. Một cô gái, đứng ưỡng rốn vào mặt
khách, ở cái vị trí dễ thấy nhất trong căn phòng. Cô gái có đôi mắt đen hoang dã,
riềm mi dày và mái tóc uốn xù đổ xuống lưng. Góc tấm áp phích ấy là tấm ảnh cỡ
chín-sáu của chủ nhân, dược dán ép vào cùng với dòng chữ: “ Mùa đông đầu tiên ở
Mạc Tư Khoa. Nhớ em Nga của anh.” Cuối giường, một chiếc bàn cao chân, trên để
các chồng đĩa hát ép nghiêng giữa đống sách báo và tường nhà. Vài bông cẩm
chướng khô héo. Vài chiếc dao cạo râu vứt bừa bãi với chiếc mùixoa bẩn và dụng cụ
tránh thai của đàn ông.

Tôi nóng mặt. Tôi chợt hiểu ánh mắt người đàn ông tóc muối tiêu, Tôi chợt hiểu cái
nhìn nghiêm khắc thầm lặng của ông già dưới gian tiền sảnh. Tiếng nói của cậu
Chính vang lên:
- Hằng uống gì nào? Bia hay nước quả?
Tôi chưa kịp trả lời, cậu nói thêm:
- Uống nước kơvát nhé. Ở đây tha hồ xả láng.
- Cho cháu chén nước chè.
Cậu cười:
- Con bé này giản dị nhỉ!
Nói rồi cậu đi pha trà nóng cho tôi. Chưa pha xong chén nước, đồng hồ treo tường đã
thong thả điểm nhịp. Mười một giờ ba mươi. Con chim cúc cu thò mỏ gỗ ra mổ làm
nảy bật một âm thanh trong như tiếng hạc. Cậu Chính kêu:
- Chết thật, đến giờ rồi.
Nói đoạn, cậu hấp tấp bưng chén trà tới đặt trước mặt tôi:
- Cháu uống nước, ngồi chơi nhé. Cậu đang dở tay một tí. Chúng nó về bây giờ.
- Cậu nói ai cơ?
Thay vì trả lời tôi, cậu lặp lại như cái máy:
- Chúng nó về bây giờ.
Và cậu ngồi xuống, thái tiếp miếng thịt bò đang thái dở. Hai cái bếp điện đang cháy,
thanh cácbon đỏ rực. Một nồi áp suất đang sôi. Bếp kia, vẫn để không . Cậu Chính
thái thịt nhanh như một tay bán phở. Cậu đập tỏi, gia thêm mì chính, muối tinh ướp
thịt. Sau đó, cậu quay sang thái khoai tây. Khoai tây đã gọt vỏ, cậu xắp hình con chì.
Còn súplơ cậu cũng xắt lát dày trên năm li. Con dao đưa thoăn thoắt dưới bàn tay
cậu, chắc chắn còn khéo léo và thành thục hơn 50 phần trăm số đàn bà Việt Nam
thời nay. Còn lại hai củ cà rốt, cậu lách mũi dao tỉa sơ hình chiếc lá rồi thái sao. Cả
cần và tỏi tây cũng được tỉa chè hình hoa một cách cầu kỳ. Xong các động tác chuẩn
bị, cậu đặt chảo mỡ lên chiếc bếp để không. Chừng hai phút sau, mỡ đã sôi. Cậu thả
mớ khoai tây vào. Tôi hỏi:
- Khoai tây xào thịt bò hả cậu? Sao lại thái hình con chì?
Cậu bảo:
- Ngốc. Khoai tây thái con chì mời dòn dều. Để ăn kèm với rau sống và thịt bò rán.
Còn bát thịt ướp tỏi kia để xào súplơ và cần tỏi tây.
Trong lúc chờ khoai tây chín, cậu vừa đảo đều lên bằng chiếc bàn sảm, vừa lôi trong
gậm bàn một chiếc xoong nhôm mới. Hóa ra xoong đựng đầy nhân nem, bao gồm

115
Những Thiên Đường Mù

thịt băm trộn với miến vụn, rau bắp cải thái, trứng, hành tiêu cùng ướp. Mở ngăn
kéo, cậu rút ra vài tập bánh đa nem, như người làm ảo thuật. Và trước cặp mắt ngỡ
ngàng của tôi, cậu cuốn nem thoăn thoắt. Tôi trầm trồ:
- Cậu giỏi thật. Ai dạy cậu thế?
Trán cau lại, cậu làu bàu đáp:
- Ai dạy? Không biết làm thì có mà...
Tới đó, cậu ngừng lại. Ngoài hành lang, vang lên những bước chân ồn ĩ. Có vật gì đó
va đập rất nặng nề. Cậu Chính ngừng tay, ngẩng lên nghe ngóng:
- Chúng nó về đấy.
Cậu nói, lần này là lần thứ ba . Ngay tức khắc sau đó, tiếng gõ cửa vang lên. Cậu nói
to:
- Có đây.
Đoạn bảo tôi:
- Ra mở cửa đi cháu.
Tôi ra chưa tới cứa, đã nghe tiếng một cậu con trai gắt bên ngoài:
Mau lên chứ! Ông ngủ trong ấy à!

116
Những Thiên Đường Mù

Chương 20

Cánh cửa vừa mở, tôi đứng dẹp sang một bên, cả tốp người đã ào vào như cơn lốc.
Họ lần lượt đặt những gói, những hòm, những túi đựng hàng hóa xuống góc phòng,
rồi mới ngẩng lên. Ai nấy mồ hôi nhễ nhại. Vẻ mặt họ mệt mỏi và cáu kỉnh.
- Đói quá, xong chưa bố già?
Vẫn cái giọng gắt gỏng ban nãy gào lên. Câu trai lùn nhất trong bọn, vai ngang, lưng
to, và khuôn mặt đỏ rực với quai hàm rất nở, vừa gào xong, chợt nhìn thấy tôi bên
cánh cửa, cậu ta khựng lại. Cậu Chính đáp.
- Sắp xong rồi. Nem vào xào phải ăn nóng.
Đoan, cậu đứng lên:
- Xin giới thiệu: cháu Hằng. Còn đây là chú Khoa, anh Hải, anh...
Họ chào tôi. Tôi chào lại từng người. Hải, anh chàng thấp lùn quay lại bảo cậu Chính:
- Bố già chơi khăm. Có phái yếu thì phải giới thiệu trước chứ?
Ông nghiên cứu sinh Khoa, cười.
- Phải cho những cô gái chứng kiến cơn háu đói của anh mới thú vị. Khi xuất hiện
trước các cô, anh nào cũng như siêu nhân.
Đáp lại lời Khoa, cái anh chàng cao dong dỏng, da ngăm đen khóe miệng đẹp như
khóe miệng của vị thần săn đuổi tình ái mỉm cười:
- Đừng chế riễu, ông anh. Chúng em chẳng muốn làm siêu nhân, cũng chẳng muốn
làm ma quỷ. Con người là con người. Những ai thích răn dạy thiên hạ, luôn luôn
khoác áo thày tu và miệng đọc kinh: Nam nữ thụ thụ bất thân, tới khi tha hóa họ
ngủ với con gái không cần đắn đo 15 phút. những kẻ ấy, đã trượt là trượt tới đáy
bùn.
Nói xong, anh ta kéo ghế mời tôi:
- Mời cô.
Rồi anh ta ngồi xuống chiếc ghế đối diện, dáng điệu như chủ nhân chính thức của
căn phòng. Còn ông nghiên cứu sinh Khoa thì cười cười như để chống đỡ lực tấn công
nào đó, tay lùa vào mái tóc:
- Tôi là con người hành động. Tôi không ưa lý luận đâu.
Anh chàng da ngăm vẫn nhếch môi cười, lộ hai hàm răng trắng như ngọc.
- Đúng rồi, sau khi đã ban phát cho lũ đàn em chúng tôi mọi thứ lý luận cao siêu thì
các ông anh phải gấp gấp hành động. Không hành động thì thiệt thòi. Tuổi 50 đuổi
sồng sộc sau lưng. Mà cuộc đời còn nhiều thú vui quá, và các cô con gái cứ mỗi ngày
là một lạ lùng hơn.

Nói xong, anh ta lại cười. Làn môi thanh tú nhếch lên. Đôi mắt nheo nheo nhìn ông
nghiên cứu sinh Khoa lúc ấy giả tảng cúi xuống đẩy những hòm hàng vừa mua được
vào gầm giường. Tôi không thể rời mắt khỏi nụ cười ấy. Nó làm tôi nhớ tới một nhân
vật trong bộ phim, 108 anh hùng Lương Sơn Bạc. Nhân vật ấy là lãng tử Yến Thanh,
một tài nhân siêu việt, cầm kỳ thi họa giỏi mà võ nghệ cũng cao cường. Đáng người
thanh tú, gương mặt đẹp, điệu đi uyển chuyển mềm mại, anh ta xuất hiện giữa đám
ca công, kỹ nữ cũng như xuất hiện giữa phường lục lâm thảo khấu, hoặc đám hảo
hớn cùng với một dáng điệu ung dung tự tại và nụ cười hàm chứa vẻ mỉa mai lẫn sự
độ lượng trên môi. Nụ cười đó vừa là nụ cười của con sói giò đã vượt qua bao nhiêu
hoang nguyên, đã tử sinh qua bao nhiêu cuộc chiến, coi hòn đạn mũi tên như cốc
rượu quân cờ, lại vừa là nụ cười của một chàng trai trẻ đang độ thanh xuân, một
cánh rừng trinh trắng và quyền rũ. Chưa có người nào gợi cho tôi sự liên tưởng mãnh
liệt như vậy.
- Ối giời ơi...
Anh chàng to béo tên Hải lại quát tướng lên:

117
Những Thiên Đường Mù

- Thôi đừng tranh luận nữa/ Tôi đó quá rồi.


Đoạn quay sang tôi, anh ta hạ giọng:
- Vả lại, cũng còn phải chiếu cố tới vị khách này nữa chứ? Ông Chính đã mời em ăn
gì chưa? Chắc là chưa phải không? Ông ấy có thể ngậm một đồng kôpếch từ sáng
đến chiều trong miệng nếu như vì thế mà bớt được hai bữa cơm. Nào bố già, dọn ra
đi.
- Xong tất cả rồi. Chỉ ba phút nữa là có thể chạm cốc.
Miệng nói, tay cậu trải miếng nhựa hoa lên bàn. Rồi cậu lần lượt đặt đĩa thị bò xào
súplơ, cà rốt, cần tỏi. Sau đó tới đĩa khoai tây rán với bítết. Một đĩa rau sống cùng
với dọc tỏi muối, thứ thực phẩm mua ở các chợ nông trường. Một tô canh lớn sườn
ninh. Cuối cùng là nem rán, xếp trong chiếc giỏ nhựa màu trắng rất xinh, trông như
đồ chơi của thiếu nhi. Nước chấm nem được làm đúng theo kỹ thuật Việt Nam: nước
mắm khô, chanh ớt, tỏi giã, mì chính, đường. Mọi người ngồi vào bàn, Cậu Chính lấy
bát đũa, cốc thủy tinh cỡ lớn và một chục chai bia. Anh chàng Hải xoa ba tay, nói.
- Được dược. Sau một buổi sáng đi chiến đấu, cứu nước cứu nhà ăn bữa cơm như thế
này mới là xứng đáng. Nào, các ông. Kìa bố già chưa mở biara sao? Chậm trễ thế.
Ông phải nhớ thời buổi này làthời buổi chuyên môn hóa cao độ. Không ý thức được
điều ấy sẽ bị loại trừ khỏi cuộc sống. Chúng tôi mà cứ rù rờ như ông có đến Tết cũng
không mua nổi 12 chiếc nồi áp suất trong một giờ đồng hồ. Thôi, tôi phải làm cái
nem đã.

Anh ta cúi xuống bốc một chiếc nem ăn vã. Hai người kia ngồi im. Trong khoảng thời
gian đó, cậu Chính cố thao tác mở bia, rót bia vào các cốc cho tật nhanh. Tay cậu
run từng chập. Có lẽ, sức khỏe của cậu cũng không thể phục hồi hoàn toàn sau thời
kỳ mắc bệnh. Rót tới cốc của tôi, cậu làm bia rớt xuống bàn. Anh chàng to béo háu
đói sau khi nuốt hết chiếc nem ngẩng lên.
- Nào, ta chạm cốc.
Tất cả cầm cốc bia. Anh chàng da ngăm quay sang tôi.
- Mời cô.
Tôi cầm cốc lên, cùng chạm với bọn họ.
- Nào chúc sức khòe.
- Chúc cho đội quân cứu nước cứu nhà.
Giọng cười bỡn cợt. Tiếng cốc chạm lanh canh. Bia lắng dần lớp bọt trắng phau như
tuyết, để lại thứ nước trong suốt màu vàng. Màu của cánh đồng xứ sở, ngày mùa.
Màu của nhớ nhung.
Đám đàn ông đã uống cạn. Họ bắt đầu cúi xuống ăn, bình phẩm các món ăn.
- Nem hôm nay hơi mặn đấy bố già nhé.
- Tôi sẽ rút kinh nghiệm.
- Xào thì được. Khá hơn lần trước.
- Lần trước thì là tại thị bò già, thớ nhão mà dai quá.
- Ờ, anh Khoa, bảo anh dúi cho con Irina năm rúp trước ngày mua thực phẩm, sao
anh không đưa?
- Tớ quên.
- Đừng có vờ. Anh chỉ quên một thứ : là tên các em dưới tỉnh lên thôi. Anh liệu đấy,
không xấu chơi được đâu.
- Hôn ấy tao hết tiền đi taxi.
- Bỏ kiểu ấy đi, lần sau phải đưa tiền trước cho nó nghiêm chỉnh. Nó sẽ giành cho
mình thịt loại một . Hôm nọ tôi tặng nó cả một chai Lúa Mới 15 rúp hôm nay mới có
thịt ngon như thế này.
- Thế à. Rượu cậu lấy của ai?
- Sứ quán.
Tôi uống ngụm bia. Bỗng dưng tôi thấy căn phòng chòng chành chao đảo. Các chai
bia, những cốc thủy tinh màu vàng rơm, những đĩa thức ăn, làn khói bay trên tô

118
Những Thiên Đường Mù

canh nóng. Tất cả hòa trộn, quay đảo cùng với các gương mặt đang đỏ dần lên vì
men bia. Cô gái Hà Lan ném vào tôi cái nhìn khiêu khích, mái tóc đe bồng bềnh như
đám huyền thảo trong thế giới ảo mộng phiêu lãng nào đây. Chiếc quần tắm màu đỏ
có các đường ren kim tuyến óng ánh kẻ một lằn thẳng căng trên làn da hồng. Cái
chụp đèn gục trên chồng sách.Tất cả bắt đầy quay. Trong tôi, từ từ dâng lên những
lượn sóng không màu sắc, không mùi vị nhưng dồn dập hết cơn sóng này tới cơn
sóng khác, nhấn chìm tôi xuống, làm tôi nghẹn thở. Tôi cố gắng chống ta đứng dậy.
- Có lẽ...
Tiếng chàng trai da ngăm cất lên:
- Cô ấy ốm rồi. Mặt tái xanh thế kia.
Tôi thấy bónh anh nhào tới. Bàn tay anh đặt trên vai tôi, dìu tôi lại chiếc giường. Lúc
gương mặt anh sáp gần, tôi chớt thấy hiện lên một gương mặt của quá khứ. Nhất
định tôi đã gặp anh ta. Nhất định thế... lãng tử Yến Thanh, tôi đặt cho anh ta cái tên
đó, và chìm trong cơn sốt...

Tôi không rõ mình đã nằm mê bao lâu. Lúc tôi tỉnh dậy, ánh đèn sáng chói rọi vào
mắt khiến tôi vội nhắm mắt lại. Ánh đèn chói như kim đâm. Lúc ốm, mọi cảm giác
đều sai lạc và khủng khiếp. Tôi kéo chăn, trùm kín đầu. Tuy thế, vẫn ngửi thấy mùi
khói thuốc, toàn thuốc N.B. hôi khét, khiến đầu tôi nặng như chì. Nhưng cảm giác
chòng chành như say sóng không còn nữa. Tôi thấy rõ rệt là mình đang nằm trên
giường, bằng phẳng và chắc chắn, không bị các con sóng đu đẩy. Tiếng máy quay
đĩa văng vẳng bên tai. Chợt, giọng anh Hải béo oang oang:
- Tính xong chưa mày?
- Xong.
Đó là chàng lãng tử đáp lại. Lại giọng ông nghiên cứu sinh Khoa:
- Tớ phải trả cậu bao nhiêu nữa?
- 120 rúp chẵn.
- Gay quá nhỉ. Kỳ này bà xã thúc gửi hàng ráo riết, lương hết nhẵn như chùi.
- Thôi, anh không cần nhăn nhó, tôi cho anh chịu.
Chàng lãng tử ngừng lại một chút rồi nói tiếp:
- Nhưng tiền ăn phải nạp cho sòng phẳng. Tuần này mỗi người hết 28 rúp.
Ôâng nghiên cứu sinh kêu thảng thốt:
- Sao lại những 28 rúp?
- Nghe đây, 84 rúp rưỡi, không phải mỗi người 28 rúp thì bao nhiêu? Cái phần nửa
rúp đương nhiên tôi chịu cho.
- Còn ông Chính.
- Anh ngu quá...
Giọng anh chàng lãng tử rành rọt:
- Ông ta đã tới làm thuê cho mình, lại còn bắt nộp tiền ăn. Anh thấy đời nào có
chuyện ấy không?
Anh Hải cười khanh khách:
- Đúng quá. Các ông anh toàn giỏi những lý luận trên trời dưới biển, luật sống tối
thiểu thì không chịu biết. Quên, còn tiền công của bố già Chính, góp vào thanh toán
luôn.
- Lão ấy đòi à?
- Phải, ông ta đòi trả ngay tức khắc.
Chàng lãng tử cười:
- Ông ta thích cầm chắc đồng rúp trong tay. Nào các vị, mỗi người hai rúp bỏ lên bàn
cho tôi. Được rồi, lát nữa ta sẽ chứng kiến nụ cười của lão Grăngđê tái sinh. Ông ấy
đang làm gì? Bát đĩa rửa sạch từ nãy cơ mà?
- Ông ấy đang giặt nốt hai cái áo Pantô của ông và tôi.
- Sao lại giặt? Phải chải xăng chứ?
- Đúng. Nhưng tôi bước vào phòng tắm đã thấy ông ấy đập bồm bộp, bọt xà phòng

119
Những Thiên Đường Mù

bắn tung tóe lên. Đành chịu chứ sao. Khi nào khô phải đem chải và hấp lại lần nữa.
- Đúng là mua việc.
- Lần trước ông ấy cũng làm cháy cái áo thun của toi. Hàng Ý xịn hẳn hoi. Hôm nhờ
cắt khẩu hiệu cũng không cắt nổi. Ông anh tôi cùng học trong trường Aôn bảo ông ấy
lên lớp toàn ngủ gật. Nhưng về tới nhà, nhanh như cắt đi lùng mua hàng căngtin.
Thứ nào quý, ông ấy mua được trước tiên. Có lẽ, khả năng vĩ đại nhất trong con
người ông ta là khả năng đầu bếp.
- Phải, nhờ khả năng ấy ông ta chiếm được lòng cấp trên, nhờ được lòng cấp trên
ông ấy nhảy lên cấp lãnh đạo

Lúc ấy, có tiếng bước chân lẹt xẹt. Chắc của cậu Chính. Cậu thở hào hển, kêu:
- Khiếp, vắt hai cái áo nặng quá. Mỏi nhừ cả tay.
Chàng lãng tử cười.
- Một chiến công. Xin chúc mừng ông. Đây, sáu rúp tiền công, mời ngài cầm lấy.

Tôi nghe cậu hẹ hẹ, không rõ ra tiếng cười hay tiếng hắng giọng. Rồi, cậu bảo:
- Hôm nay các anh tiến bộ thật.
Chàng lãng tử hỏi.
- Tiến bộ gì?
- Không mở nhạc nhảy. Từ ngày tới đây mới có buổi tối yên tĩnh. Tôi cứ nghe thứ
chát sình ma quỷ ấy là điên đầu. Chẳng hiểu hay ho ở chỗ nào mà các anh nghiện
như nghiện thuốc lá?
- Ra thế. Trong con mắt ông, chúng tôi là lũ trai hư hỏng, phải không?
- Thời chúng tôi, không ai thích những thứ nhạc nhẽo trụy lạc như vậy.
- Ở cùng số nhà với bố mẹ tôi, có một ông phó giám đốc, cỡ tuổi gần như ông. Ông
ấy mặc quần ống rộng, đũng rộng và dài. Không phải thứ quần bó chịt, làm nổi
mông nổi đùi như lũ chúng tôi. Áo kiểu Tôn Trung Sơn gài khuy tận cổ, cũng không
giống thứ áo xẻ bụng, xẻ nách in hình chim cò sặc sỡ như áo tụi tôi. Ông ấy được
tiếng là nghiêm nghị. Mở miệng là nói lời giáo huấn. Đầu óc toàn nghĩ tới chuyện cao
cả: Nào là tinh thần cách mạng, nào là ý thức tổ chức, nào là nghĩa vụ quốc tế và
nghĩa vụ công dân. Số nhà tôi ở gồm sáu hộ, 27 nhân khẩu lớn nhỏ, không ai có bộ
mặt quyền uy như ông ấy. Ông ấy có hai đứa con gái và một đứa cháu ngoại. Bà vợ
kém ông ta vài tuổi, hai ngày một lượt leo lên xe con đi chợ, mắt chẳng bao giờ ngó
xuống đám láng giềng. Rồi bỗng một hôm, chúng tôi đi đá bóng buổi trưa về, cả lũ
tắm truồng lông nhông ngoài sân. Nghe có tiếng kêu vang trong nhà tắm công cộng.
Một đứa giật cửa, nhưng cửa gài chặt. Mà tiếng kêu ú ớ bên trong cứ vẳng ra. Lũ
chúng tôi bèn công kênh nhau, ghé mắt qua lỗ thông hơi sát nóc nhà tắm, nhìn vào.
Ông phó giám đốc tôn kính đang ở trong đó, trần như nhộng, trên một con bé 14
tuổi. Con bé ấy vẫn ú ớ kêu, còn ông ta ông ta vẫn tiếp tục làm việc. Lũ mất dạy
chúng tôi, thoạt đầu thích chí cười rinh rích. Hết thằng nọ tới thằng kia đổi nhau,
xem trò vui. Nhưng con bé giãy giụa mãi, chắc nó đau. Ông ta bịt chặt miệng nó lại
không thể kêu to. Đó là một con bé mắc chứng tâm thần. Nó học hết lớp năm thì
phải bỏ về nhà. Nó cũng là một đứa mồ côi. Cha nó làm nghề lái tàu điện bị chứng
hậu bối chết từ khi nó lên ba . Mẹ nó ở sát số nhà tôi, làm nghề bán dưa chua cà
muối. Hồi nhỏ, lúc nó chưa mắc chứng tâm thần, chúng tôi vẫn chơi trò ú tim, trò
nhảy dây, trò đá cầu với nhau. Nó không đẹp, nhưng mũm mĩm xinh xắn, lại thảo
ăn. Có quả nhót, quả ổi nào cũng chia cho bạn. Lúc ấy tôi chợt thấy mình dã man.
Tôi chợt nhớ rằng con bé bị hãm hiếp kia cũng 14 tuổi như mình, cũng chỉ là một đứa
bé con, không có gì che chắn và bảo vệ, dù một mảnh chai sắc hay nắm đấm của
một gã đàn ông thô bạo cũng chẳng đủ sức chống đỡ. Tôi không tham gia trò đùa
nhẫn tâm ấy. Tôi chạy sang nhà bà hàng xóm, gọi bà Cứ đang thái dưa cải, nghe tin,
thét lên như bị chọc tiết. Cứ thế, vẫn con dao nhọn trong tay, chạy sang...

120
Những Thiên Đường Mù

Chàng trai ngừng lời. Không ai lên tiếng. Gian phòng im phăng phắc. Tôi chỉ còn
nghe tiếng đồng hồ tích tắc kêu. Rồi lát sau chàng lãng tử hắng giọng nói tiếp.
- Thế đấy ông Chính ạ. Cái lão hiếp dâm ấy không tới sàn nhảy bao giờ. Chắc chắn
cũng răn dạy công nhân xí nghiệp của hắn là nhảy nhót là trụy lạc, rằng thế hệ của
hắn không bao giờ tham dự những trò vui hư hỏng như thế, rằng cuộc đời hắn chỉ là
để phục vụ cách mạng cao cả cho tới hơi thở cuối cùng. Hắn cũng cùng quan niệm và
sở thích như ông. Nói thế, tôi không muốn xúc phạm ông. Tôi biết ông không phải là
kẻ hám gái. Nhưng những người như ông và hắn có gì đó rất giống nhau.
Cậu Chính hỏi, giật giọng.
- Anh nói cái gì?
Chàng trai đáp, bình thản.
- Ông cứ bình tĩnh. Và nếu ông định dọa nạt tôi ở đây thì ông sẽ phí công. Cho dù
ông có tới tòa đại sứ nịnh hót, tố cáo, vu khống tôi đủ điều. Cái trò đó, nhiều kẻ đã
diễn rồi. Hãy ngồi xuống ghế, uống đi một cốc kơvát, và tôi sẽ tiếp tục hầu chuyện
ông.

Lại một khoảng khắc im lặng. Rồi giọng chàng trai cất lên.
- Chính những người như hắn hoặc như ông ra lệnh săn đuổi chúng tôi trên đường
phố, cắt ống quần loe khi các ông không mặc quần loe, cắp ống quần tuýp khi các
ông không mặc quần tuýp. Phẩm cách con người được các ông định khuôn bằng
chiều rộng của ống quần. Nếu các ông mặc quần ống 23 thì 18 triệu thanh niên
chúng tôi phải mặc ống quần cỡ 23. Chật hay rộng hơn đều là phản Đảng, phản
quốc. Tôi không bao giờ quên được cảnh tượng ấy, khi tôi còn nhỏ, tôi đã nhìn thấy
anh chị tôi và đám bạn của họ bị rượt đuổi, bị chặn đứng ở các ngả tư đường phố, bị
soát xét hạch lạc như những kẻ trốn tù. Vẻ mặt nhớn nhác của họ, con mắt bạc
nhược hay hờn căm của họ, những lời họ van xin hoặc gào thét phản ứng. Lúc ấy, tôi
đứng nép vào chân cột điện, tôi nhìn họ và tay chân tôi run bắn. Đường như chính tôi
cũng sắp bị lấy dao xẻ rách ống quần. Tại sao con người lại bị đọa đầy vô lý thế? Vết
thương ấy không thành sẹo trong tim tôi. Nhát chém nào trong tuổi thơ cũng không
thể lành. Tôi lớn lên. Và dần dần tôi chứng nghiệm rằng những con người từng có
sức khống chế lũ chúng tôi như lão phó giám đốc kia hoàn toàn không giống hình
ảnh kinh sợ và cao cả mà chúng tôi đã hình dung. Họ là những diễn viên đại tài. Họ
định ra bao nhiêu niêm luật khắt khe. Nhưng trong bóng đêm, họ sống cuộc sống
nhầy nhụa không đạo lý và luật tắc. Này ông Chính, ông vẫn cứ bảo thứ nhảy nhót
của chúng tôi là trụy lạc. Đã bao giờ ông chứng kiến những cuộc nhảy nhót vô hình
còn trụy lạc gấp triệu triệu lần thế không ?

Cậu Chính đáp, giọng khô khan.


- Anh đừng nói tầm phào. Làm gì có những cuộc nhảy nhót vô hình?
Chàng lãng kử cười khe khẽ nói.
- Có đấy. Tôi đã chứng kiến vài lần. Những kẻ cao sang, sau một thời gian bày mưu
tính kế hãm hại các đối thủ, chạy chọt, o bế quan trên, đã tới được cái đích của họ,
một chức tước nào đó đủ cả quyền uy và bổng lộc. Đêm hôm cuối cùng của cuộc hạ
sát ấy, họ ngồi hút thuốc lào sòng sọc hoặc đốt thuốc lá cho tới buổi sáng mà quyết
định bổ nhiệm họ được đọc lên. Đêm ấy, chắc chắn tim óc họ sẽ nhảy nhót. Chúng
tôi nhảy thì ôm bạn gái. Còn họ ôm cái bóng của chính mình, ôm cái ghế mà họ khao
khát. Ấy là điệu nhảy vô hình mà tôi muốn nói. Theo ông, điệu nhảy ấy có trụy lạc
hơn điệu nhảy của chúng tôi không ?
- Tôi không nói chuyện ấy với anh. Các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, cơ quan
chúng tôi không có.
- Cứ tin là cơ quan ông không có. Vậy khi cơ quan ông không có, ông cũng không
thèm để tâm tới các hiện tượng xã hội? Thế các ông làm gì?
Cậu Chính gay gắt.

121
Những Thiên Đường Mù

- Anh lạ thật. Chúng tôi làm công tác tư tưởng.


Lúc ấy, có tiếng gõ cửa. Chàng lãng tử hỏi.
- Ai đấy? Kìa anh Khoa ngồi gần mở cửa xem ai?
- Thôi tớ đang viết dở, Hải ra hộ vậy.
Hải béo đáp.
- Được.
Tiếng bước chân anh ta huỳnh huỵch. Cửa kẹt mở. Giọng rụt rè của một cô gái.
- Cho em hỏi anh Khoa.
Hải hỏi.
- Cô tên gì?
Giọng đáp lại e dè.
- Em là Chương. Em ở Kiép.
- Chờ nhé.
Đoạn anh ta quay vào.
- Anh Khoa.
Tiếng ông nghiên cứu sinh thì thầm.
- Bảo tớ vắng nhà. Bảo cô ta đi đi.
- Được rồi.
Tiếng chân anh ta ngay đầu giường tôi nằm. Chợt, giọng chàng lãng tử vang lên.
- Khoan đã.
Hải dừng lại. Nghe tiếng anh ta thở ngay đầu giường tôi nàm. Rồi anh hỏi, ngạc
nhiên.
- Có chuyện gì vậy?
Chàng lãng tử đáp.
- Chờ đã.
Rồi anh ta cười khảy và nói.
- Này anh Khoa. Anh đuổi một đứa con gái giữa lúc đên khuya dễ dàng như thế sao?
- Không đuổi thì để nó vào làm gì? Có cho nó ngủ nhờ cũng chẳng còn chỗ. Cậu treo
nó lên đầu cậu được không ?
- Nếu cần, treo cô ta lên đầu anh. Bất cứ người con gái nào anh chưa lừa được lên cái
giường của anh đều có giá. Và ngược lại... Chí ít anh cũng phải có một chút lương tri
chứ?
Khoa cười nhạt, phì một tiếng, đáp:
- Cậu ít nhời đi. Còn đủ thời gian lý luận.
- Tôi không tranh cãi. Nhưng anh phải để cho cô ta vào. Mười giờ đêm cô ta biết đi
đâu?
Khoa quát.
- Cậu ra lệnh cho tôi phải không ? Tôi là chủ căn phòng này.
Chàng trai cười khảy.
- Anh là chủ căn phòng này. Đúng. Nhưng tôi lại là chủ thứ khác có giá trị hơn. Nói
chung, anh thích nghe những lời thô lỗ. Giờ, muộn sao?
Trong phòng im lặng. Chỉ còn nghe tiếng tích tắc của đồng hồ. Rồi, giọng ông nghiên
cứu sinh nặng nề.
- Thôi được. Hải, gọi cô ta vào hộ tôi.
Hải bước ra khỏi cửa. Rồi quay vào oang oang nói.
- Biến rồi.
Chàng lãng tử bảo.
- Cậu đuổi theo cô ta. Chắc cô ta còn ở phòng trực.
Anh chàng to béo mở cửa, đi ra. Tiếng bước chân nặng nề mất hút dần ngoài hành
lang. Căn phòng yên lặng. Không ai nói với ai nữa. Tôi lơ mơ như muốn ngủ lại.
Nhưng chừng 10 phút sau, tiếng chân ồn ĩ của anh chàng to béo đã khua ngoài cửa.
Anh ta vào, nói.
- Biến rồi. Tôi trễ thang máy. Xuống phòng trực, họ bảo cô ta vừa lấy giấy tờ xong.

122
Những Thiên Đường Mù

Chạy ra cửa không thấy bóng dáng ai. Có lẽ cô ta đã vớ được chuyến xe buýt cuối
ngày.
Không ai nói gì. Chừng năm phút sau, anh chàng Hải béo lại lên tiếng.
- Thôi đi ngủ các vị. Mai tiếp tục cuộc chiến đấu. Được ngày nào vét ngày ấy không
tới kỳ thi lại đâm đầu vào học.
Anh ta ngáp thật to rồi nói.
- Ối giời ơi, thế này mà ở bên nhà mọi người cứ nghĩ mình đi học nước ngoài là sung
sướng lắm đấy. Thật là thân trâu cày ngựa cưỡi... Oàm oàm...
Anh ta lại ngáp thật to, nghe như tiếng gầm của một con hổ bị nhốt trong cũi sắt.
Sáng hôm sau, khi tôi thức dậy, căn buồng trống vắng. Nhưng lúc tôi quờ tay, làm
rớt vật gì đó xuống sàn, anh chàng da ngăm chợt xuất hiện ở cửa thông sang khu
vực phụ. Anh ta hỏi.
- Tỉnh rồi hả?
- Vâng.
Mặt và đầu anh ta ướt ròng. Chắc vừa ở trong phòng tắm. Hôm nay anh ta mặc sơ
mi carô nâu nhạt và quần jin nhung. Tôi chợt nhớ một hình ảng đã gặp. Tôi ngơ
ngác. Anh ta nhìn tôi, tủm tỉm cưới.
- Có phải cô đang nghĩ xem đã gặp tôi ở đâu, phải không ?
- Sao anh biết?
- Tôi đang học nghề phù thủy hiện đại. Nói đúng hơn, tối đang muốn thử nghiệm khả
năng ngoại cảm của mình. Cô đã nhớ ra chưa?
Tôi lắc đầu.
- Chịu.
Chàng lãng tử cười.
- Trí nhớ tồi qua. Hôm khai trường, cô mặc chiếc áo đầy những dây và khóa cài màu
tím nhạt, và đi đôi guốc trắng vẽ hoa.
Tôi bất chợt reo lên.
- À! tôi nhớ rồi.
Anh ta ở nhóm sinh viên lớn đã đùa cợt tôi.
- “Ai vẽ cho em kiểu áo đẹp thế?”
Nhưng dạo ấy, anh gầy hơn bây giờ, trông như cây lau.
- Tôi là sinh viên khóa Sử. Lúc cô vào, tôi vừa học xong một năm ngoại ngữ, chuẩn
bị sang đây.
- Anh vẫn học?
- Tất nhiên. Phi vụ này là công việc của tụi tôi. Trách nhiệm với gia đình. Còn cô tại
sao bỏ học?
- Mẹ tôi bị tai nạn giao thông, cụt chân. Tôi đành bỏ trường để kiếm sống.
- Làm gì?
- Thợ dệt.
Anh ta lắc đầu.
- Còm nhom thế chịu sao được rét. Kiếm được miếng cơm ở xứ này cũng nhọc nhằn
lắm cô bạn ạ.
- Tôi biết. Nhưng không còn cách nào khác.
Anh ta xoa mạnh chiếc khăn mặt lên đầu, đôi mắt thờ thẫn nhìn đâu đó. Mắt anh ta
màu hạt dẻ, mơ màng. Rồi chợt thở một hơi mạnh, hỏi.
- Còn ông Chính là thế nào với cô?
- Cậu ruột.
Chàng trai nhún vai.
- Thế à?
Tôi im lặng. Anh ta lại hỏi.
- Cô lên chơi với ông cậu? Nhưng tôi thấy cô còn đang ốm.
- Tôi vừa ở bệnh viện về được 10 hôm. Cậu ấy điện cho tôi lên.
- Điện thế nào?

123
Những Thiên Đường Mù

- Điện là : “Cậu ốm. Hằng lên ngay.”


Anh nhếch môi cười. Lúc ấy tôi thấy như chàng lãng tử Yến Thanh hiện về, với tất cả
vẻ kiêu mạn trẻ trung đầy quyến rũ. Anh thong thả vắt khăn mặt lên ghế, kéo ghế
tới gần giường, ngồi đối diện với tôi.
- Cô biết ông cậu của cô gọi cô lên Mátxcơva làm gì không ?
Tôi không đáp, nhìn anh chờ đợi. Anh nói tiếp:
- Ông ta chuẩn bị đóng hòm gửi biển. Việc ấy, cần phải giỏi tiếng Nga và giỏi chi
tiêu. Cả hai thứ ông ta đều kém.
Chàng lãng tử ngừng lại, suy ngẫm hồi lâu rồi tiếp.
- Đám người như thế, tôi soi kính lúp vào tận ruột họ. Nhưng dù sao, tôi cũng không
thể hiểu được, với một cô gái mảnh khảnh yếu ớt như cô.
- Boong...
Chuông ngân nga. Đã chín giờ rưỡi. Chàng lãng tử nói.
- Ông ấy đi ra cửa hàng thực phẩm sắp về.
Rồi móc trong túi một xấp bạc, đưa cho tôi.
- Cô cầm lấy.
Tôi kêu lên.
- Không được. Sao anh kỳ cục thế?
Chàng lãng tử nhếch mép cười.
- Không kỳ cục đâu, cô bạn. Nghe tôi nói đã. Cô không thể ở đây giúp ông cậu gửi
hàng vì việc đó tốn sức và tốn tiền. Mặt cô xanh mét, và tiền chắc cũng không dư dả.
Lát nữa, khi ông ta ngỏ lời nhờ cậy, cô hãy đưa nắm tiền này ra và nói: Cháu phải về
làm việc, không thể ở lâu. Cháu giúp cậu tiền cước.

Tôi lắc đầu.


- Không phải vậy.
Anh chàng quả quyết.
- Không phải, cho cô chặt đầu tôi. Cứ cầm lấy. Ông ấy về ngay bây giờ.
Dúi nắm tiền vào tay tôi xong, anh ta quay đi luôn. Tôi nhét số tiền ấy dưới gối.
Chàng lãng tử pha một cốc sữa nóng với mấy viên trợ lực đưa cho tôi.
- Uống đi.
Tôi cầm cốc sữa, không dám nói lời cảm ơn vì thấy rõ sự nhạt nhẽo của ngôn từ.
Uống sữa xong, người tôi nóng dần lên, mồ hôi rịn ra hai bên thái dương và trên
trán. Chừng năm phút sau, lúc tôi nằm trùm chăn, chàng lãng tử cạo râu trước
gương, cậu Chính về. Ném làn thực phẩm xuống sàn, cậu hỏi.
- Anh thấy con cháu tôi nó tỉnh chưa?
- Quái lạ, đã uống thuốc mà cứ sốt li bì. Lẽ ra, nó phải dậy rồi mới đúng.
- Chỉ có mấy viên cảm làm sao đủ trị sốt. Ông phải cho cô ấy ăn uống gì nữa chứ?
Không ăn, mẻ cũng chết.
- Ờ ờ... Tí nữa tôi sẽ nấu mì cho nó ăn.
Tôi nghe chàng lãng tử thu dọn đồ vật gì đó, rồi chừng năm phút sau, anh ta bảo cậu
Chính:
- Tôi đi. Một giờ tôi về.
Cánh cửa mở rồi đóng, rung sàn. Tôi ngồi lên. Cậu Chính mừng rỡ bảo.
- Cháu khỏe rồi hả? Có ăn gì không ?
- Cháu không muốn ăn gì.
- Ừ, tới bữa ăn cả thể cũng được.
- Bao giờ cậu về trường?
- Ngày mai.
- Cậu gọi cháu lên đây có việc gì?
Cậu gật đầu ờ ờ... Rồi bước tới gần tôi vcậu nói:
- Cậu sắp về, chỉ hai tuần nữa thôi. Cháu còn ở lại lâu, cháu có khả năng làm kinh tế.
Cậu muốn nhờ cháu giúp cậu...

124
Những Thiên Đường Mù

Tôi lặng im, cậu tiếp.


- Khi đi, mẹ mày dặn: khó khăn gì đã có con Hằng. Cháu giỏi ngữ. Cậu chẳng biết
tiếng tăm.
Tôi vẫn ngồi im, cậu hắng giọng, lại tiếp.
- Hàng họ cậu đã chuẩn bị hòm. Nhưng gay go nhất là khoản cước.
Tôi lại muốn nằm, tôi muốn kết thúc nhanh chóng. Tôi rút nắm tiền dưới gối.
- Đây, cậu cầm lấy.
Cậu nhìn, ngần ngừ hỏi:
- Bao nhiêu? Sao nhiều thế?
- Cậu cứ cầm lấy, cháu chưa đếm.
Cậu cầm nắm bạc, bắt đầu đếm. 134 rúp. Cậu xếp nắm tuyền thứ tự: tờ 50 rúp
ngoài, tới tờ 25 rúp bên trong, tới tờ 10 rúp, năm rúp, một rúp. Một công việc cẩn
trọng và say mê. Khuôn mặt cậu hiện ra lồ lộ trước mắt tôi: đường lượn của quai
hàm, tràng mày, đường cong đuôi mắt, sống mũi. Những dáng nét quen thuộc từ
phút giây gặp gỡ đầu tiên. Phút giây ấy, tôi đã yêu cậu với một tình yêu sung sướng.
- A à à...
Cậu bỗng buông tiếng thở dài khoan khoái, đoạn bỏ số tiền đã xếp gọn ghẽ vào túi
áo. Tôi trùm kín chăn để khỏi nhìn thấy cậu. Trong bóng tối, hình ảnh một ngày quá
vãng trở về.

Sớm hôm ấy, tôi thức dậy sớm. Tôi pha sữa cho mẹ uống, giặt giũ mớ áo quần bẩn,
mua hoa quả, bánh trái và đặt sẵn những dụng cụ cần thiết trên bàn. Xong xuôi tôi
gửi mẹ cho mấy người nuôi bệnh nhân cùng phòng để đi báo tin cho cậu Chính. Mẹ
tôi đã yêu cầu khẩn thiết từ buổi tối đầu tiên tôi vào ngủ trong bệnh viện. Nhưng tôi
khất lần cho tới hôm nay. Mẹ bảo.
- Chủ Nhật, thế nào cô cậu ấy cũng ở nhà.
- Vâng, mẹ cứ yên tâm. Nhưng mới có sáu giờ sáng, chưa thể đi ngay được. Ở những
khu tập thể, họ thường ngủ muộn.
Mẹ lặng im, nhưng nét mặt bồn chồn. Sáu giờ 15, tôi xách làn đi. Trước hết, ra cổng
viện, tôi kiếm hàng xôi lúa làm một đĩa đầy rồi mới thủng thẳng dắt xe đi. Tới Quốc
Tử Giám, gặp gánh xiếc miền Nam có biểu diễn trò xe leo vòng, tôi lại ghé vào xem
một lúc. Tôi tới nhà cậu Chính lúc non 9 giờ. Cậu đang buộc lại cánh cửa chuồng nuôi
thỏ. Thấy tôi, cậu cười.
- A, cái Hằng. Mẹ cháu đâu?
- Mẹ cháu bị xe chẹt.
- Có làm sao không?
- Một.
- Thế còn là may. Hôm qua ở đường Triệu Việt Vương có thằng bé 15 tuổi bị xe chẹt
cưa cụt cả hai chân. Không chịu chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông. Sống mà
vô tổ chức vô kỷ luật thì thế nào cũng chết, chẳng sớm thì muộn. Thôi, vào nhà đi.
Cậu rửa cái tay đã.

Tôi vào nhà. Cậu Chính thu dọn kìm búa, mấy đoạn giây thép, vài cái đinh rồi đi rửa
tay. Mợ Chính đang bận gì đó trong buồng. Thấy tôi, mợ ló đầu ra, đôi mắt sáng rỡ.
- A, Hằng đến chơi hả cháu? Mẹ đâu?
Tôi chưa kịp trả lời, cậu Chính đã nói vọng vào.
- Mẹ nó bị xe chẹt, cụt chân rồi.
Mặt người đàn bà đần ra, đôi mắt tắt ngấm. Mợ ta lắp bắp.
- Thế hả?... Thế hả?
Sau đó, mợ bảo.
- Ngồi chơi với cậu nhé, mợ đang tìm cho em Tú chiếc áo len cũ.
Rồi mợ thụt đầu vào trong buồng. Cậu Chính lau khô tay, tới ngồi trước mặt tôi.
- Mẹ mày nằm viện nào?

125
Những Thiên Đường Mù

- Mẹ cháu nằm trong viện Bạch Mai. Mẹ cháu có ý nhắn cậu từ thứ tư tuần trước,
nhưng cháu bận.

Tới đó cậu lặng ngắt. Tôi cũng lặng ngắt. Để ý nhìn, gian phòng của cậu đã khang
trang hơn xưa. Nơi đặt chiến trạn gỗ đã thay bằng chiếc tủ lạnh hiệu Xatatốp mới
tinh. Trên nóc tủ đứng, đặt một chiếc máy truyền hình Nhật 19 inh. Máy phủ tấm lụa
in hoa sặc sỡ. Sau một lát im lặng, Cậu Chính cất tiếng gọi.
- Thành ơi.
Từ trong buồng có tiếng đáp.
- Có chuyện gì, anh Chính?
- Ra đây tôi bàn tí việc.
Trong buồng có tiếng đáp.
- Thì cứ nói, đang dở tay tìm cái áo cũ cho thằng bé.
- Cần một ít tiền gửi vào cho chị Quế. Nhà mình có không?
Mợ Thành đáp vọng ra:
- Có hay không anh còn phải hỏi hay sao? Lương kỳ một trả hết tiền căngtin rồi, vừa
xà phòng, mì chính vừa xăm lốp xe đạp và hai cái xoong nhôm.
- Rút tiết kiệm.
- Anh thật quan liêu. Sổ tiết kiệm nhà mình là loại có định kỳ, năm năm nữa mới rút
ra được. Còn hàng tháng lấy lãi phải tới mồng 7 tháng sau.
- Có vay tạm ai được không
- Đoạn ấy thì chịu. Xưa nay mình chẳng vay ai một xu.
Cậu Chính thở dài. Đoạn, cậu làu bàu.
- Có cái gì đem bán đi nhỉ?
Cậu nói nhỏ, như hụt hơi. Nhưng mợ Thành nghe thấy. Mợ lao từ trong buồng ra, tay
cầm một chiếc áo len trẻ con màu đỏ, có lẽ là hàng viện trợ chiến tranh. Mợ thảng
thốt nhìn chồng.
- Bán cái gì?
Cậu Chính lằm bằm.
- Ấy là tôi nói thế.
- Chiếc Xalatốp kia là tiền của tôi, tôi mua, trong đợt tham quan Liên Xô đấy nhé.
Nhà này, anh chỉ mua được cái TV thôi. Anh có bán thì bán. Nhưng bán thì con anh
mất xem.

Tôi lẳng lặng bỏ ra về. Cả hai vợ chồng đang cúi gằm mặt suy tính. Có lẽ, họ không
nhìn thấy tôi. Hoặc nhìn thấy nhưng họ cố tình giả tảng?

Tôi trở lại phòng bệnh của mẹ tôi lúc gần ngọ. Mẹ đang nằm, mặt quay ra cửa. Thấy
tôi, mẹ cười tươi.
- Hằng về hả con?
Nụ cười tươi tắn trên vành môi nhợt và gương mặt trắng như giấy ngâm. Hai mắt mẹ
hau háu nhìn tôi, có ý chời đợi, phấp phỏng. Ánh mắt ấy là ánh mắt của con chó
trung thành chờ âm huệ ban thưởng. Tôi nhói lòng. Tôi quay đi. Mẹ có ý nhắc.
- Thế nào còn?
- Cậu Chính đi công tác mẹ ạ.
Mẹ hỏi, mụ cười vẫn ngời sáng trên môi.
- Cậu đi công tác xa hay gần hở con?
- Xa.
- Thảo nào, hôm qua mẹ nghe đài nói có đoàn đại biểu Liên Xô vừa sang trao đổi với
Đảng mình về công tác tư tưởng. Chắc cậu con đưa đoàn ấy đi tham quan các tỉnh
miền Nam.
- Vâng.

126
Những Thiên Đường Mù

Có một bàn tay đập rất mạnh vào vai tôi.


- Dậy, dậy đi Hằng. Cậu nấu trước bát mì, ăn đi cho mau khỏe.
Tôi co mép chăn, để cậu khỏi giật ra được, và tôi đáp.
- Không, cháu không muốn ăn, cậu để cho cháu nằm.
Trong bóng tối ấm áp của tấm chăn, tôi được tĩnh lặng Tôi quên mọi gương mặt, tôi
xóa mọi âm thanh. Trí nhớ như căn phòng hoang vắng. Và tôi chìm vào giấc ngủ.

Hôm sau, chàng lãng tử ngỏ ý đưa tôi ra ga thay cậu Chính. Không một phút đắn đo,
tôi gật đầu ưng thuận, dù trong thâm tâm tôi biết rắng người con gái cư xử như thế
thật chẳng hay ho gì. Tôi không muốn trước khi bước lên tàu, chịu đựng một cuộc
hành trình buồn tẻ lại phải nhìn thấy ông cậu ruột. Chàng lãng tử đã mua sắm đồ ăn
đường và mua vé cho tôi. Anh cũng mua cho anh tấm vé vào ga để đưa tôi ra tận kè
đá chờ tàu. Tôi thấy anh ta nói tiếng Nga giỏi chẳng kém gì người đàn ông tóc muối
tiêu đã đưa tôi tới căn buồng của ông nghiên cứu sinh Sinh Hóa. Với ngữ điệu đặc sệt
Nga, nước da rám đen và gương mặt thanh tú anh chàng khiến cho nhiều cô gái Nga
chú ý. Họ ném theo những ánh mắt hoặc vội vã thầm lén, hoặc công nhiên và dai
dẳng. Chàng lãng tử giữ vẻ mặt phớt tỉnh Ănglê. Tôi thầm cười anh ta vì dẫu sao,
anh cũng chỉ hơn tôi vài tuổi. Chúng tôi đứng bên nhau chờ tàu, nói đủ thứ chuyện,
trừ chuyện về bản thân. Giờ từ biệt, cuối cùng cũng tới. Tôi xiết chặt tay anh.
- Cảm ơn anh. Cảm ơn anh rất nhiều.
Chàng lãng tử cười.
- Đừng, cảm ít thôi còn để dành cho lần sau.
Mắt anh lóe lên tia lửa tinh nghịch, ranh mãnh. Tôi bật cười theo. Anh hỏi.
- Có gửi gắm gì cho cậu không ?
- Không.
Rồi sau chút đắn đo, tôi hỏi.
- Cậu ấy làm thuê cho các anh từ bao giờ?
- Mấy tháng nay. Trước, chúng tôi thuê một ông khác. Ông ấy về nước và giới thiệu
ông Chính. Hai người này có quen biết nhau. Ở đây chúng tôi coi là việc hợp lý hóa
lao động.
Tôi lắc đầu.
- Dù sau , tôi cũng không thể hiểu. Ngày hôm qua, sự việc diễn ra đúng như anh dự
đoán.
Chàng lãng tử đưa tay kéo món tóc xòa xuống mắt tôi lên, rồi nói.
- Người ta nên hiểu biết hết mọi sự trên đời cô bé ạ, dù cho là sự thực đau buồn. Ông
cậu của cô giống như một loạt người tôi từng gặp. Họ là những kẻ đã phung phí gần
hết đời sống của mình vào việc vẽ nên một thiên đường dưới trần ai, nhưng trí khôn
ngắn ngủi của họ lại không đủ để hiểu thiên đường ấy ra sao và con đường nào đưa
tới nó. Vì thế khi biết công việc ấy hão huyền thì họ hối hả tìm kiếm những miếng ăn
thực, nhặt nhạnh những hạt ngũ cốc thực trên mảnh đất bùn lầy, Họ làm việc ấy, bất
kể bằng cách nào. Họ là tấn thảm kịch cho chính họ, tấn thảm kịch cho thế hệ chúng
ta.

Tàu đến, anh xiết chặt tay tôi lần nữa, rồi xách túi đưa tôi lên toa. Khi tôi ngồi vào
chỗ, anh trở lại bờ kè. Ở đó, anh đứng chờ cho con tàu tư từ lướt qua và hình bóng
anh nhòa dần sau ô cửa kính.

Hết

Dương Thu Hương

127

You might also like