You are on page 1of 2

Bán khống là một khái niệm tài chính còn tương đối với TTCK 7 năm non trẻ

của Việt
Nam. Tuy nhiên, trên thế giới, nghiệp vụ bán khống đã được một số TTCK trên thế
giới thực hiện từ rất lâu và hiện trở nên phổ biến ở TTCK các nước phát triển.

Cơ hội kiếm lời

Bán khống trong giao dịch chứng khoán là bán một loại chứng khoán mà người bán
ko còn sở hữu tại thời điểm bán, cụ thể hơn là bán chứng khoán vay mượn. Khi nhà
đầu tư dự đoán rằng, trong tương lai giá cổ phiếu sẽ hạ, họ sẽ thực hiện bán khống,
tức là đi vay cổ phiếu của TTCK để bán; sau khi giá hạ, họ sẽ mua cổ phiếu đó trên
thị trường để trả lại và hưởng khoản chênh lệch giá. Nhưng nếu giá trên thị trường
không hạ như dự đoán mà lại tăng lên, nhà đầu tư vẫn phải mua cổ phiếu đó để trả
và chấp nhận một khoản lỗ.

Để đảm bảo an toàn, công ty chứng khoán triển khai nghiệp vụ này thường yêu cầu
người vay chứng khoán ký quỹ một khoản tiền nhất định, tuy nhỏ hơn giá trị chứng
khoán đi vay nhưng đủ để bù đắp khoản lỗ nếu có. Trong quá trình chưa trả được nợ,
nếu giá thị trường tăng lên thì người bán khống (người vay) phải bổ sung thêm tiền
ký quỹ. Ngược lại, nếu giá giảm thì người vay có thể rút bớt ra để sử dụng.

Bán khống chứng khoán khi thị trường điều chỉnh giảm cũng là hình thức khuyến
khích nhà đầu tư tham gia thị trường, bởi họ vẫn có thể kiếm được lời, trong khi mua
bán theo cách bình thường, họ chỉ kiếm được lời khi thị trường tăng giá.

Năm 2009 Việt Nam sẽ có bán khống

Khoản 9, Điều 71 Luật Chứng khoán quy định về nghĩa vụ của công ty chứng khoán
như sau: “ Thực hiện việc bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không sở
hữu chứng khoán và cho khách hàng vay chứng khoán để bán theo quy định của Bộ
Tài chính”. Như vậy, Luật thì không cấm như phải chờ hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Theo Quyết định số 701/QĐ-UBCK ngày 20/11/2006 của Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước ban hành Kế hoạch phát triển công ty chứng khoán giai đoạn 2006-2010, thì
đến năm 2009 nghiệp vụ bán khống sẽ có quy chế hướng dẫn thực hiện.

Theo quy định hiện hành, khách hàng phải ký quỹ đủ 100% tiền thì mới được mua
chứng khoán, có nghĩa là không được “mua khống”. Tuy nhiên, vẫn có nhiều hoạt
động lách được luật này, chẳng hạn với hoạt động repo hoặc cầm cố chứng khoán thì
khách hàng có thể nhận thêm vốn để tiếp tục mua cổ phiếu.

Nhà đầu tư cần vốn nhưng không muốn bán đứt số chứng khoán mình hiện có, có
thể bán cho công ty chứng khoán với mức giá cụ thể, đồng thời cam kết mua lại sau
một thời gian với một mức giá xác định. Đây chính là nghiệp vụ repo (mua bán cổ
phiếu có kỳ hạn).
Còn cho vay cầm cố chứng khoán là việc thế chấp, thường là cổ phiếu (cả niêm yết
và OTC), để vay tiền của công ty chứng khoán hoặc ngân hàng trong một thời gian
nhất định, mức vay thường được tính bằng 20-50% thị giá, tùy theo quy định của
bên nhận cầm cố. Trong thời hạn vay mà thị giá cổ phiếu giảm xuống dưới một mức
quy định thì người vay phải nộp thêm tiền để đảm bảo an toàn cho bên nhận cầm cố,
nếu không bên nhận cầm cố có quyền thanh lý cổ phiếu.

Cả cầm cố và repo đều là những nghiệp vụ lách luật hợp pháp nhằm giúp nhà đầu tư
được “mua khống”.

Hoạt động cho khách hàng vay tiền mua cổ phiếu cũng đã xuất hiện với tên gọi:
“ứng trước tiền bán chứng khoán”. Hiện nay, để thực hiện nghiệp vụ này, các công
ty chứng khoán phải hợp tác với ngân hàng, đứng ra làm trung gian nhằm giúp
khách hàng có thể nhận được tiền bán chứng khoán trước ngày T+3. Chỉ cần có
thông báo kết quả lệnh bán đã được khớp là khách hàng hoàn toàn có thể làm hợp
đồng xin ứng trước tiền chứng khoán đã bán với mức phí quy định. Một số công ty
ngay sau khi có kế quả khớp lệnh và khách hàng có thể dùng để mua chứng khoán
ngay trong phiên giao dịch.

Có thể ứng trước chứng khoán?

Theo quy định, sau khi mua chứng khoán, đến ngày T+3 chứng khoán mới được ghi
nhận vào tài khoản, nhưng do chứng khoán được chuyển vào ngày T+3 nên khách
hàng chỉ có thể bán chứng khoán vào sáng ngày T+4. vậy với một nghiệp vụ tương
tự như “ứng trước tiền bán chứng khoán” thì có thể có nghiệp vụ “ứng trước chứng
khoán” với những khác hàng đã có thông báo kết quả khớp lệnh mua thành công
chứng khoán nhằm giúp nhà đầu tư có thể cắt lỗ trong trường hợp giá có xu hướng
giảm?. Nghiệp vụ này có thể được thực hiện giữa công ty chứng khoán và khách
hàng của mình hoặc các khách hàng của công ty với nhau hay giữa các công ty
chứng khoán với nhau.

Nếu nghiệp vụ áp dụng giữa công ty chứng khoán với khách hàng thì yêu cầu để
thực hiện là tài khoản tự doanh của công ty chứng khoán phải có chứng khoán để có
thể ứng trước cho khách hàng và khách hàng ký với công ty cam kết vay và chuyển
giao chứng khoán mình đã mua lại cho công ty. Tất nhiên, khách hàng sẽ chịu một
mức phí nhất định gọi là phí “ứng trước chứng khoán”. Nếu nghiệp vụ áp dụng giữa
khách hàng với nhau thì công ty chứng khoán đứng ra làm trung gian và hưởng phí
môi giới, phí quản lý hoạt động vay mượn và thanh toán giữa các khách hàng.

You might also like