Professional Documents
Culture Documents
Thông qua việc khai thác địa nhiệt tầng nông . Khai thác địa nhiệt tầng nông là
khai thác nhiệt của đất nằm ở độ sâu từ 1 đến 150 m dưới bề mặt đất. Nhờ có những
công nghệ tiên tiến (máy bơm nhiệt, máy thu tích nhiệt, mũi hút địa nhiệt, giếng nước
ngầm hay các tấm bêton áp đất) mà lượng nhiệt tầng nông tuy có độ chênh lệch nhiệt
độ tương đối thấp so với nhiệt độ không khí song vẫn có thể được khai thác phục vụ
cho sưởi ấm vào mùa đông và làm mát về mùa hè cho các công trình như nhà văn
phòng, trường học, nhà trẻ, trạm y tế, siêu thị,… Gần 80% nhiệt lượng dùng cho việc
sưởi ấm hay làm mát toà nhà đều được khai thác từ nguồn cấp nhiệt nằm ngay trong
lòng đất và như vậy việc sưởi ấm hay làm mát có thể được coi gần như không có xả
thải khí CO2 và không hề ảnh hưởng đến khí hậu toàn cầu. Trong báo cáo này sẽ giới
thiệu về mặt kỹ thuật và công nghệ, phân tích ở khía cạnh kinh tế và tác dụng môi
trường cũng như nêu xu thế chung
Bơm địa nhiệt hay còn được biết như bơm nhiệt từ lòng đất (ground-source heat
pump), là một kỹ thuật năng lượng mới có hiệu suất cao và ngày càng được sử dụng
rộng rãi trong các hộ gia đình cũng như trong công sở. Kỹ thuật này ứng dụng trong việc
điều hòa nhiệt độ và cung cấp nước nóng. Thuận lợi lớn nhất của nó là khả năng tập trung
nhiệt từ tự nhiên (lòng đất) hơn là tạo nhiệt từ việc đốt các nhiên liệu hóa thạch gây ô nhiễm
môi trường.
Máy bơm nhiệt có tác dụng lấy / hút nhiệt từ trong lòng đất nhờ một lượng nhiệt
nhỏ "làm mồi" cho khởi động vận hành bộ phận cơ hay nhiệt để nâng từ một nhiệt độ
thấp đến một nhiệt độ cao nhất định nào đó. Trong trường hợp làm lạnh thì nguyên tắc
hoạt động ngược lại. Việc truyền nhiệt trong máy bơm nhiệt được tiến hành theo một
vòng tuần hoàn động nhiệt khép kín mà trong đó lãnh chất đóng vai trò quan trọng và
có ý nghĩa lớn nhất (Hình). Hoạt động của máy bơm như sau:
- Trong máy bốc hơi thì lãnh chất lạnh ở thể lỏng tiếp nhận nhiệt từ nguồn nóng và làm
bốc hơi.
- Máy ép hơi nén lãnh chất ở thể khí mà trong đó có sử dụng năng lượng cơ học hay
điện học bên ngoài và làm nóng nó lên thành khí nóng.
- Khí nóng giải phóng năng lượng nhiệt ở máy tụ hơi sang hệ thống sưởi và lại tích tụ
thành lãnh chất nóng ở thể lỏng;
- Lãnh chất nóng ở thể lỏng được xả ra thông qua một ventil xả và qua đó nhiệt độ lại
giảm đi nhanh chóng. Trong máy bốc hơi quá trình thu nhiệt lại bắt đầu từ đầu.
Các hồ địa nhiệt chưa có sẵn mà các chuyên gia phải nghiên cứu , tính toán tìm
ra các khu vực , các lớp đất đá tại đó tích tụ một lượng nhiệt rất cao , phù hợp để tiến
hành các bước kế tiếp tạo ra điện năng . Sau khi tìm được lớp đất đá phù hợp ở độ sâu
khoảng 5.000-10.000 feet ( tức khoảng 1,5 – 3 km) , họ tiến hành khoan và dùng áp
lực đủ lớn tạo ra các vết nứt , sau đó nước lạnh sẽ được bơm xuống . Nước nay sẽ
được làm nóng nhờ các lớp đá trên , chúng sẽ được bơm lên thông qua cột lô khoan
thác để tạo ra điện năng .
1.2. Phân loại các nhà máy sản xuất năng lượng địa nhiệt
1.2.1. Nhà máy hơi nước nóng khô - Dry steam (Nhà máy phát điện trực
tiếp)
Dry steam sử dụng hơi nước ở nhiệt độ cao (>235°C) và một ít nước nóng từ bể
địa nhiệt. Hơi nước sẽ được dẫn vào thẳng turbine qua ống dẫn để quay máy phát
điện.
Trong sơ đồ trực tiếp, hơi nóng với áp suất cao thổi trực tiếp làm quay tuốc bin
để sinh ra điện. Đây là kiểu nhà máy điện địa nhiệt lâu đời nhất, lần đầu tiên được thử
nghiệm ở Italia năm 1904, và vẫn được ứng dụng cho đến nay. Tại Callifornia có nhà
Trang 10
máy điện địa nhiệt lớn nhất thế giới hoạt động theo nguyên lý này.
Trang 11
1.2.2. Nhà máy bằng nước siêu lỏng - Flash steam (nhà máy sản xuất điện
gián tiếp)
Flash steam là dạng kỹ thuật phổ biến nhất hiện nay. Nhà máy dạng flash steam sử
dụng nước nóng ở áp suất cao (>182°C) từ bể địa nhiệt. Nước nóng ở nhiệt độ cao này
tự phụt lên bề mặt thông qua giếng do chính áp suất của chúng. Trong quá trình nước
nóng được bơm vào máy phát điện, áp suất của nước giảm rất nhanh khi phụt lên gần
mặt đất. Chính sự giảm áp này khiến nước nóng bốc hơi hoàn toàn và hơi nước sinh ra
sẽ làm quay turbine phát điện. Lượng nước nóng không bốc thành hơi sẽ được bơm
xuống trở lại bể địa nhiệt thông qua giếng bơm xuyên (injection wells).
Trong sơ đồ gián tiếp, nước “siêu lỏng” từ tầng nước nóng bên dưới được đưa lên
mặt đất và được giữ ở độ nóng trên 182 °C. Hỗn hợp nước nóng và hơi nước này được
dẫn vào buồng hơi để hạ áp suất, do vậy phần lớn hỗn hợp
< nước nóng + hơi nước nóng> được biến thành hơi nước.
Hơi nước ở áp suất cao sẽ làm quay tuốc bin phát điện.
1.2.3. Nhà máy hai chu trình
1.2.3.1. Cấu tạo & Nguyên lý hoạt động
Các nhà máy địa nhiệt binary-cycle sử dụng nước nóng có nhiệt độ trung bình
dao động từ 107-182°C từ bể địa nhiệt. Tại các hệ thống binary, chất lỏng địa nhiệt
được dẫn qua một bên của hệ thống trao đổi nhiệt để nung nóng chất lỏng thứ cấp ở
ống dẫn bên cạnh. Chất lỏng thứ cấp thường là hợp chất hữu cơ có nhiệt độ sôi thấp
hơn nhiệt độ sôi của nước, ví dụ như Isobutane hoặc Iso-pentane. Chất lỏng thứ cấp
sau khi được đun sôi ở hệ thống trao đổi nhiệt sẽ bốc hơi và được dẫn vào turbine.
Trong quá trình vận hành của bất kỳ nhà máy địa nhiệt điện nào, hệ thống làm
nguội đóng một vai trò hết sức quan trọng. Các tháp làm nguội (cooling towers) giúp
turbin không bị quá nóng và từ đó kéo dài thời gian sử dụng. Có hai dạng hệ thống
làm nguội chính yếu: dùng nước hoặc dùng không khí.
Trong sơ đồ hỗn hợp, sử dụng nước nóng có nhiệt độ thấp hơn 200 độ C, là nguồn
nước nóng dồi dào nhất trong đa số các vùng địa nhiệt. Nước nóng dưới lòng đất được
đưa lên ở dạng “siêu lỏng”, có nhiệt độ sôi thấp, được đưa qua buồng trao đổi nhiệt.
Nhiệt năng của nước địa nhiệt làm nước trong buồng trao đổi nhiệt bốc hơi, và hơi nước
ở áp suất cao sẽ làm quay tuốc bin điện. Ưu điểm của mô hình này là hạn chế được tình
trạng có thể gây hại môi trường (mặc dầu rất nhẹ, nếu so với nhiệt điện từ nhiên liệu
hóa thạch) như 2 mô hình trên. Đây là hệ thống khép kín nên không có chất thải vào khí
quyển hay đất – do nước ngầm dưới sâu thường chứa các khí độc như SO2, CO2 và
chứa vi lượng các nguyên tố như Arsenic, Thủy Ngân, Antimon… Nước nóng có nhiệt
độ cao vừa phải là nguồn địa nhiệt thông dụng, có tiềm năng dồi dào nhất, do đó trong
tương lai đa số các nhà máy điện địa nhiệt sẽ hoạt động theo nguyên lý này.
Để nhà máy điện hoạt động hiệu quả, đòi hỏi nguồn địa nhiệt phải từ 120-150oC
trở lên. Thông thường nước từ nguồn nhiệt được bơm đến bộ tách hơi, phần hơi nước
tách ra được chuyển đến tua bin hơi để chạy máy phát điện. Hơi nước sau tua bin
được ngưng tụ và được bơm trở lại lòng đất cùng với phần nước ngưng tại bộ tách
hơi. Phần nước nóng cũng có thể được sử dụng cho các mục đích khác như sưởi, vệ
sinh, tắm,…
Hầu hết các nhà máy nhiệt điện (trong đó có địa nhiệt điện) sử dụng các hệ thống
dùng nước. Hệ thống này yêu cầu ít diện tích sử dụng hơn hệ thống dùng khí và được
xem là hiệu quả và khả thi hơn cả. Hệ thống làm nguội dùng nước đòi hỏi một nguồn
nước liên tục và tạo ra các cột hơi nước. Thông thường, một phần hơi nước bơm vào
turbin (đối với dạng nhà máy flash và team) được ngưng tụ để giảm phần hơi nước
thải ra thành cột.
1.2.3.2. Ưu diểm
Lợi thế chủ yếu của hệ thống hai chu trình là chất lỏng thứ cấp có nhiệt độ sôi
thấp hơn nhiệt độ sôi của nước, do đó các bể địa nhiệt nhiệt độ thấp vẫn có thể được
sử dụng. Mặt khác, do hệ thống hai chu trình là một chu trình tương đối kín nên hầu
như không có khí thải nào được sinh ra. Vì những lý do kể trên mà các chuyên gia địa
nhiệt dự đoán rằng hệ thống hai chu trình sẽ là giải pháp kỹ thuật chủ đạo cho việc
sản xuất điện địa nhiệt trong tương lai.
1.2.3.3. Nhược điểm
Hệ thống dùng khí thì không có tính ổn định như hệ thống dùng nước do phụ
thuộc mật thiết vào nhiệt độ không khí. Hệ thống này tuy rất hữu dụng vào mùa đông
khi nhiệt độ xuống rất thấp nhưng hiệu suất của nó giảm đáng kể vào mùa hè khi
chênh lệch nhiệt độ giữa không khí không còn bao nhiêu, từ đó không khí không còn
khả năng làm hạ nhiệt các chất lỏng hữu cơ sử dụng trong các nhà máy. Tuy nhiên, hệ
thống dùng nước lại rất cần thiết ở những khu vực khan hiếm nguồn nước. Hệ thống
này cũng hữu dụng tại những nơi có các yêu cầu khắc khe về cảnh quan sinh thái do
chúng không tạo ra các cột hơi nước như ở hệ thống dùng nước. Hầu hết các hệ thống
dùng khí được sử dụng trong các nhà máy kỹ thuật binary.
2.1.1.3.Ứng dụng Bơm địa nhiệt
Điều hòa nhiệt độ bằng địa nhiệt
Hầu hết ở mọi nơi trên bề mặt Trái Đất, nhiệt độ của lòng đất ở 30 cm trên cùng
giữ một nhiệt độ tương đối ổn định vào khoảng 100-160 C. Hệ thống bơm địa nhiệt có
thể tận dụng nguồn nhiệt này để điều hòa nhiệt độ các tòa nhà. Hệ thống bơm gồm có
một bơm nhiệt, một hệ thống dẫn khí, một hệ thống trao đổi nhiệt (hệ thống ống đặt
chìm trong lòng đất gần tòa nhà). Vào mùa đông, bơm nhiệt sẽ "lấy" nhiệt từ hệ trao
đổi nhiệt và bơm vào hệ thống dẫn nhiệt ở trong nhà. Vào mùa hè, quá trình này được
đảo ngược, bơm nhiệt sẽ "rút" nhiệt từ trong nhà và bơm vào hệ thống trao đổi nhiệt.
Mặt khác, nhiệt rút ra từ không khí trong nhà sẽ còn có thể được sử dụng để đun nước
ấm sử dụng trong mùa hè.
2.1.1.4. Ứng dụng khác :
Tương tự nhiệt từ long đất có thể dược đưa lên phục vụ cho một số các hoạt
động sau :
- Sấy ngũ cốc .
- Làm ấm nước ở các trại nuôi cá .
- Một số các ứng dụng trong công nghiệp như tiệt trùng sữa
- các nhà kính (greenhouses)
_Bảng công suất lắp đặt các nhà máy địa nhiệt (2007)_