Professional Documents
Culture Documents
Thuật ngữ spin-off có thể hiểu là khi một doanh nghiệp có các hoạt động kinh doanh kém hiệu quả hoặc
các mảng hoạt động không liên quan đến hoạt động kinh doanh chính (sản phẩm phụ), doanh nghiệp sẽ
thành lập một doanh nghiệp mới và chuyển các mảng hoạt động này sang công ty mới. Công ty mới độc
lập này được kỳ vọng sẽ hoạt động với hiệu quả tốt hơn lúc hoạt động là một bộ phận của công ty ban
đầu.
Thuật ngữ trên xuất phát từ Mỹ và rất phổ biến từ thập niên 80 của thế kỷ XX. Đây là sự lựa chọn được
nhiều công ty lớn, có những mảng hoạt động kém hiệu quả và hoạt động đa ngành tại Mỹ. Chủ đề
nghiên cứu về spin-off là 1 đề tài thú vị và được giới học thuật tranh luận từ rất sớm với những nghiên
cứu của Hitevaf Owers (1983), Miles và Ronsenfeld (1983), Schipper và Smith (1983), Cusatis, Miles và
Woolridge (1993) . . . hay gần đây nhất các nghiên cứu của Yoon Teik Wei và Annuar Nassir (2012), Nicos
Savva và Niyazi Taneri (2012).
Hiện tại, trong số các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, có khá nhiều công ty hoạt
động đa ngành và trong số đó, có không ít những mảng hoạt động không tốt. Chúng tôi cho rằng spin-off
có thể sẽ là một hướng đi mới, phù hợp để các doanh nghiệp này tái cơ cấu. Vậy spin-off ảnh hưởng như
thế nào đến giá trị thị trường, cấu trúc vốn và hiệu quả hoạt động của cả 2 doanh nghiệp sau spin-off?
Bài viết này sẽ đi trả lời câu hỏi trên.
Khái quát tiến trình một quyết định spin-off
Để tóm tắt một quá trình spin-off, chúng tôi đưa ra một mô hình, trong mô hình có 4 thời điểm (t = 0, 1,
2, 3) và các chủ thể sau đây: hội đồng quản trị, cổ đông đương nhiệm (cổ đông chính), quản lý các bộ
phận, đối thủ, nhà đầu tư nhỏ thụ động. Tất cả đều trung lập với rủi ro (risk neutral). Giả sử công ty có 2
bộ phận: bộ phận thứ nhất (hoạt động chính) và bộ phận thứ 2 (bộ phận được tách ra).
Tại thời điểm t = 0, hội đồng quản trị đưa ra quyết định có hay không thực hiện quyết định spin-off. Các
cổ đông chiến lược cũng bắt đầu biết đến tin tức này từ hội đồng quản trị, họ đưa ra quyết định có tiếp
quản cả 2 công ty sau spin-off hay không, nhà quản trị đương nhiệm cũng đưa ra quyết định liệu có quản
lý cả hai công ty hay từ bỏ quyền kiểm soát với bộ phận được tách ra (nếu bộ phận được tách ra có sẵn
người điều hành phù hợp).
Tại thời điểm t = 1, quyết định có spin-off hay không được công bố cùng với 1 kế hoạch spin-offs (trong
TH có spin-off). Bản kế hoạch spin-off xác định tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các cổ đông chiến lược và ban
điều hành trong hai công ty mới. Các cổ đông chiến lược và nhà đầu tư nhỏ lẻ nắm giữ cổ phần trong hai
công ty theo tỷ lệ trong công ty ban đầu.
Tại thời điểm t = 2, một đối thủ xuất hiện (với một xác suất nhất định), đối thủ này đầu tư vào 2 công ty
sau khi spin-off với một chiến lược nhất định nhằm giành quyền kiểm soát công ty với các cổ đông chiến
lược hiện hữu, hoặc giành quyền quản lý của công ty sau spin-off nếu các nhà quản trị hiện tại không
tiếp tục điều hành công ty.
Nếu các đối thủ xuất hiện ở thời điểm t = 2, tại thời điểm t = 3, một cuộc chiến dành quyền kiểm soát
diễn ra giữa các cổ đông chiến lược, nhà đầu tư thụ động và các đối thủ. Sự biểu quyết để chọn ra cấu
trúc quản trị mới của 2 công ty nêu trên diễn ra và kết quả biểu quyết được công bố để kết thúc quá
trình spin-off.
Theo các nghiên cứu của Thomas J.Chemmanur và An Yan (2003), một tỷ lệ nợ nhỏ hơn sẽ được phân bổ
cho công ty có tốc độ tăng trưởng vốn cổ phần thấp hơn tốc độ tăng trưởng nợ. Điều này sẽ làm cho cấu
trúc vốn trong tương lai của cả hai công ty sau chia tách hợp lý hơn. Trong nghiên cứu của Parrino
(1997) khi phân tích hoạt động spin-off của Marriott - một spin-off rất thành công, ông phát hiện ra rằng
Marriott đã phân bổ bất cân xứng khoản nợ cho 2 công ty sau chia tách là Host Marriott và Marriott
International. Với một tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn, Host Marriot được phân bổ tỷ lệ nợ nhỏ hơn so với
cấu trúc vốn ban đầu. Trong dài hạn, điều này giúp các cổ đông chiến lược của Marriott vẫn duy trì
quyền kiểm soát ở các 2 công ty sau spin-off.