Professional Documents
Culture Documents
Vùng đất q = γ L1
có thể bị L1
kéo đi
b b′
D
H
D W Vùng đất
có thể bị
kéo đi
a
B
Cát
Vùng đất có thể Dung trọng = γ
bị kéo đi Pp
Pp Góc ma sát = ϕ′
δ′
δ′
Df
B
Hình 4.26 Móng băng chịu tải trọng nhổ (Das, 2011).
Hệ số Fq là hàm của góc ma sát của đất Ø’ và tỉ số chiều sâu chôn móng Df/B. Đối
với một giá trị góc ma sát của đất cho trước, hệ số chịu nhổ tăng khi tỉ số Df/B tăng và
đạt giá tri tối đa khi Df/B bằng với tỉ số cực hạn, (Df/B)cr. Đối với móng nông, tỉ số độ
sâu chôn móng Df / B ≤ Df / Bcr, trong khi đó đối với móng sâu thì Df / B > Df / Bcr. Dùng
công thức (4.80) và mối liên hệ theo Meyerhof and Adams (1968), Das and Seely (1975)
đã phát triển mối liên hệ đối với móng chịu tải trọng nhổ như sau:
(A) Khả năng chịu nhổ của móng trong đất rời (c’=0)
Móng nông hình tròn và hình vuông:
Trong đó
m = hệ số, là hàm số của Ø’
Ku = hệ số chịu nhổ danh nghĩa
Các giá trị khác nhau của Ku, m và (Df/B)cr đối với móng hình vuông và hình tròn
được nêu trong Bảng 4.12 (Meyerhof và Adams, 1968).
Das and Jones (1982) đề xuất giá trị tỉ số độ sâu chôn móng cực hạn cho móng
chữ nhật:
Hình 4.27 cho thấy các giá trị khác nhau của Fq với Df/B và Ø’ đối với móng hình
vuông và hình tròn. Các giá trị được tính theo công thức (4.81).
308 Shallow Foundations
Bảng 4.12 Giá trị Ku, m và (Df/B)cr cho móng hình tròn và vuông.
Ø (độ) Ku m (Df/B)cr
100
ϕ′ = 45°
40°
35°
Fq
10
30°
1
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Df /B
Hình 4.27 Giá trị Fq với Df/B và Ø’ cho móng hình tròn và vuông.
Theo Das (2011), trình tự các bước tính toán khả năng chịu nhổ của
móng trong đất rời như sau:
(1) Xác định Df, B, L và Ø .
(2) Tính Df/B.
(3) Dùng Bảng 4.12 và Công thức (4.83), tính giá trị của (Df/B)cr.
(4) Nếu Df/B nhỏ hơn hoặc bằng (Df/B)cr, thì đó là móng nông.
(5) Nếu Df/B lớn hơn (Df/B)cr, thì đó là móng sâu.
(6) Đối với móng nông, dùng giá trị Df/B tính được ở bước 2 theo Công thức
(4.81) hoặc (4.82) để tính được Fq. Từ đó, Qu = FqAγDf .
(7) Đối với móng sâu, dùng (Df/B)cr thay cho Df/B trong Công thức (4.81)
hoặc (4.82) để tính Fq, từ đó tính được giá trọ tải trọng cực hạn Qu.
(B) Khả năng chịu nhổ của móng trong đất dính (Ø’=0)
Tải trọng cực hạn Qu của móng trong đất dính, xem Ø’ = 0, có thể được tính
như sau
Trong đó
A = diện tích móng
cu = sức kháng cắt không thoát nước của đất
Fc = hệ số chịu nhổ
Hệ số chịu nhổ tăng khi Df/B tăng và đạt giá trị tối đa Fc = F c ∗ khi Df/B bằng với tỉ số
độ sâu chôn móng cực hạn, (Df/B)cr. Das (1978, 1980) đề xuất
Trong đó
Trong đó:
tính từ đường cong trung bình trên hình 4.28, thể hiện giá trị của B’ và hệ
số α’
Theo Das, trình tự tính toán nêu trên cho kết quả khá tốt trong việc ước tính khả năng chịu
nhổ tiêu chuẩn của móng và phù hợp với lời giải lý thuyết của Merifield et al. (2003).
Shallow Foundations – Bearing Capacity 312
1.2
1.0
0.8
0.6
B′ 0.4
0.2
0
0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0
(2) Khi lựa chọn sức chịu tải thiết kế của đất, cần lưu ý các điều quan trọng như
sau:
Nếu lớp đất chịu lực ở trạng thái rời và bão hòa, đất này cần được đầm
• nén và thí nghiệm lại. Trên cơ sở các dữ liệu mới, sức chịu tải cho phép
của đất nền sẽ được lựa chọn.
Thông thường, giá trị sức chịu tải cho phép đối với đất cát, ngoại trừ
móng có bề rộng nhỏ trên đất cát rời bão hòa, chỉ quyết định bởi độ lún
(Terzaghi và Peck, 1967). Đối với các công trình thông thường, sức chịu
tải cho phép trên đất cát khô và ẩm có thể xác định từ công thức (3.11)
đến (3.13) dựa trên cơ sở thí nghiệm SPT hoặc CPT. Các công thức này
thỏa mãn điều kiện độ lún tổng cộng tối đa và độ lún lệch tối đa lần lượt
không vượt quá 25 và 20mm. Rõ ràng là kết quả tính toán từ các công
thức này cần được kiểm tra nếu muốn, bằng cách sử dụng các công thức
tính toán khả năng chịu tải và độ lún khác.
Sức chịu tải tiêu chuẩn cực hạn đối với đất sét có thể được tính trên cơ
sở công thức cho trong bảng 4.2 và từ kết quả của thí nghiệm nén không
cố kết hoặc thí nghiệm cắt không thoát nước. Sức chịu tải tiêu chuẩn an
toàn đối với đất sét thường được xác định với hệ số an toàn của đất
không nhỏ hơn 3. Sau khi xác định được áp lực tiêu chuẩn an toàn của
đất, tiếp theo cần xác định là với áp lực này thì độ lún của nền đất có
thỏa mãn hay không. Nếu độ lún của nền là thỏa mãn, áp lực tiêu chuẩn
an toàn của nền đất sẽ được chọn là sức chịu tải tiêu chuẩn cho phép
hay áp lực nền thiết kế. Nói cách khác, độ lún nền và sức chịu tải cho
phép được lựa chọn tương ứng. Nếu trong đất sét cố kết thường, độ lún
lệch cực hạn khoảng 50-100mm hoặc thậm chí là 150mm thường được
coi là không thể tránh khỏi. Các biện pháp nhằm giảm độ lún bằng các
cách giảm đi áp lực tiêu chuẩn cho phép lên nền đất về mức nhỏ hơn áp
lực tiêu chuẩn an toàn của nền được xem là kém hiệu quả và lãng phí
Shallow Foundations – Bearing Capacity 312
(Terzaghi và Peck, 1967). Vì thế, người thiết kế cần lựa chọn giữa hai
giải pháp. Hoặc người thiết kế sử dụng sức chịu tải tiêu chuẩn an toàn để
thiết kế, chập nhận nguy cơ xảy ra lún lệch lớn, hoặc sử dụng một giải
pháp nền móng khác (móng bè, móng cọc). Mặt khác, nếu nền đất sét
quá cố kết (đất sét nửa cứng và cứng bên dưới lớp đất mặt mỏng
thường là đã chịu nén trước), khi đó độ lún lệch xảy ra thường sẽ thỏa
mãn yêu cầu. Trong các trường hợp còn nhiều nghi vấn, thí nghiệm sức
chịu tải sẽ được dùng đến; tuy nhiên, nếu không được chỉ dẫn và thực
hiện một cách đúng đắn, kết quả từ thí nghiệm có thể rất sai khác. Áp lực
tiêu chuẩn cho phép của đất sét cứng dễ tách rời chỉ có thể xác định
được bằng phương pháp thí nghiệm này
Đất bùn trạng thái rời hoặc trạng thái rời bão hòa là không phù hợp làm
lớp đất chịu tải. Giá trị sức chịu tải cho phép của đất bùn trạng thái chặt
vừa hoặc rất chặt, loại đất có bụi đá (hạt cát thạch anh đồng đều) có thể
được xác định theo các phương pháp đề xuất như trên cho đất cát. Mặt
• khác, đất bùn dẻo vừa hoặc dẻo cứng (phân tử hạt hình vảy) có thể xác
định sức chịu tải theo các công thức cho đất sét.
Trong trường hợp diện tích đặt móng chiếm quá nửa diện tích chân công
trình, giải pháp kinh tế và an toàn hơn là áp dụng phương án móng bè
(xem phần 2.2).
(3) Giảm lún lệch bằng cách điều chỉnh kích thước móng. Các công thức tính toán độ
lún (Chương 3) cho thấy rằng một vùng đất chịu tải với các hình dạng móng tương
tự nhưng khác nhau về kích thước có độ lún tăng theo mức tăng của bề rộng
móng B. Trong trường hợp móng có kích thước các phương khác nhau rõ rệt, lún
lệch do nguyên nhân này là cực kỳ quan trọng cần lưu tâm; vì thế, cần thiết xem
xét các hệ số an toàn tương ứng khi điều chỉnh kích thước móng. Trong trường
hợp đất cát, độ lún lệch có thể giảm đi bằng cách giảm kích thước của móng nhỏ
nhất vì kể cả khi giảm đi hệ số an toàn cho các móng này thì hệ số an toàn sức
chịu tải còn lại vẫn thỏa mãn. Trong trường hợp đất sét, giảm kích thước móng
làm cho hệ số an toàn của đất nhỏ hơn 3, điều này là không được phép. Vì thế, độ
lún lệch của móng trên đất sét chỉ có thể giảm được bằng cách tăng kích thước
móng lớn nhất lên, vượt qua diện tích yêu cầu tính từ sức chịu tải an toàn của đất.
(4) Tổng quan các bước thiết kế móng nông. Bước đầu tiên là cần tính được tải trọng
hữu hiệu (tải trọng thiết kế) theo phương pháp cụ thể (phương pháp ứng suất cho
phép (ASD) hoặc hệ số tải trọng (LRFD)) mà tải trọng này truyền xuống lớp đất
dưới đáy móng. Bước thứ hai là xác định khả năng chịu tải cho phép (áp lực nền
thiết kế) cho lớp đất chịu tải. Diện tích đáy móng được xác định bằng cách chia tải
trọng thiết kế cho áp lực nền thiết kế. Cuối cùng, áp dụng các phương pháp cụ thể
để xác định tải trọng thiết kế, moment và lực cắt trong móng để tiến hành thiết kế
cấu tạo móng.
(5) Tải trọng thiết kế. Có hai phương pháp diễn giải và thực hành với tải trọng thiết
kế: phương pháp thiết kế theo ứng suất cho phép (ASD) (còn gọi phương pháp
thiết kế theo ứng suất làm việc, WSD) và phương pháp thiết kế theo hệ số tải
trọng (LRFD) (còn gọi là phương pháp thiết kế theo trạng thái cực hạn, USD).
Phương pháp ASD dùng tải trọng tiêu chuẩn, trong khi phương pháp LRFD
dùng tải trọng tính toán. Tất cả tiêu chuẩn, trừ một vài tiêu chuẩn khác, chỉ
định sử dụng p h ư ơ n g p h á p ASD trong thiết kế và phân tích địa kỹ thuật, trong
khi đó phương pháp LRFD được hầu hết áp dụng trong phân tích và thiết kế kết
cấu.
313 Shallow Foundations
Theo định nghĩa trong tiêu chuẩn, tải trọng thiết kế là tổ hợp bất lợi nhất của các thành
phần tải trọng khác nhau. Tiêu chuẩn ANSI/ASCE Tải trọng thiết kế tối thiểu cho nhà và
công trình khác (ASCE, 1996) định nghĩa tải trọng thiết kế theo phương pháp ASD là giá trị
lớn nhất của bốn tổ hợp dưới đây [ANSI/ASCE 2.4.1]:
(a) D (Chỉ mang tính quyết định khi một số tải trọng tác dụng ngược hướng nhau)
(b) D + L + F + H + T +(Lr hoặc S hoặc R)
(c) D+L+(Lr hoặc S hoặc R)+(W hoặc E)
(d) D+(W hoặc E)
Trong đó
D = Tĩnh tải sinh ra từ trọng lượng bản thân kết cấu, bao gồm cả tải trọng thiết bị
được lắp đặt vĩnh viễn trên kết cấu.
L = Hoạt tải; tải trọng sinh ra do mục đích sử dụng và chiếm chỗ. Tải trọng sinh ra
từ con người, đồ đạc, hàng hóa, hoạt động bảo trì, vách ngăn di động, thiết bị di
động, xe cộ và các nguồn tải trọng khác.
Lr = Hoạt tải mái.
S = tải tuyết, loại hoạt tải đặc biệt này sinh ra do tuyết tích tụ lên kết cấu.
R = tải mưa; loại hoạt tải đặc biệt này sinh ra do mưa tác động lên kết cấu. Trong
một số trường hợp, tải nước mưa đọng lại trên kết cấu cần được xem xét riêng.
H = áp lực đất sinh ra do trọng lượng và áp lực ngang của đất hoặc đá, chẳng hạn
như áp lực đất lên tường chắn.
F = tải chất lỏng; tải trọng này sinh ra bởi chất lỏng với áp lực được xác định rõ và
chiều cao cột chất lỏng tối đa, chẳng hạn như nước trong bể chứa.
E = Tải động đất; tải trọng này sinh ra từ gia tốc hình thành trong các trận động đất.
W = tải gió; tải trọng từ gió truyền vào kết cấu.
T = Tải trọng biến dạng tự sinh; tải trọng này sinh ra từ những thay đổi về nhiệt độ,
độ ẩm, từ biến, lún lệch và các quá trình tương tự khác.
Những tiêu chuẩn khác sử dụng các tổ hợp tải trọng khác nhau để tính giá trị tải
trọng thiết kế theo phương pháp ASD, vì thế, điều quan trọng là cần biết được tiêu
chuẩn nào được áp dụng cho từng dự án .
Các kỹ sư nền móng thường được phép tăng thêm 1/3 giá trị sức chịu tải thiết kế
của nền đất khi xét các tổ hợp (c)và (d), thậm chí cả khi việc tăng giá trị này không
được quy định cụ thể trong tiêu chuẩn áp dụng. Có thể dễ dàng áp dụng tiêu chí
này bằng cách nhân các tổ hợp tải trọng với hệ số 0.75 = 1/ 1.33 thay vì phải tăng
thêm sức chịu tải thiết kế của nền đất. Vì thế, các tổ hợp tải trọng thiết kế trở thành:
(a) D
(b) D + L + F + H + T +(Lr hoặc S hoặc R)
(c) 0.75[D+L+(Lr hoặc S hoặc R)+(W hoặc E)]
(d) 0.75[D+(W hoặc E)]