You are on page 1of 4

Home > New Mock Test >

How Mobile Telephony Turned into a Health Scare

The technology which enabled mobile phones was previously used in the kind of two- way
radio which could be found in taxis and emergency vehicles.
Công nghệ cho phép điện thoại có thể di động đã được sử dụng trước đây trong các loại vô
tuyến hai chiều mà có thể tìm thấy trong taxi và các phương tiện khẩn cấp.
Although this was a great development, it was not really considered mobile telephony because it
could not be used to dial into existing phone networks.
Mặc dù đây là một sự phát triển vượt bậc, tuy nhiên nó vẫn không thực sự được coi là điện thoại
di động bởi vì nó không thể được dùng để quay số vào các mạng điện thoại đã có.
It was known as simplex technology, operating on the same principles as a walkie-
talkie, which required that a user press a button, meaning that only one person at a time could
talk.
Nó được biết tới như là công nghệ chuyển tiếp một chiều, vận hành với nguyên lý tương tự
như máy bộ đàm, yêu cầu người sử dụng nhấn một cái nút, nghĩa là tại một thời điểm chỉ có
một người có thể nói.
Simplex meant that there was only one communication frequency in use at any one time.
Simplex (chuyển tiếp một chiều) có nghĩa là chỉ có một tần số liên lạc sử dụng tại một thời
điểm.
The first mobile phones to connect to telephone networks were often installed in cars before the
hand-held version came on the market and the revolution in mobile technology began.
Những chiếc điện thoại di động đầu tiên để kết nối với mạng điện thoại thường được cài đặt
trong những chiếc xe hơi trước khi phiên bản cầm tay được đưa ra thị trường và cuộc cách
mạng trong công nghệ di động bắt đầu.
The first generation of mobile phones (called 1G) were large, heavy and analogue and it was not
until the invention of the second generation (2G) in the 1990s that digital networks could be used.
Thế hệ đầu tiên của những chiếc điện thoại di động (được gọi là điện thoại 1G) thì to, nặng và
tương tự cho đến khi phát minh ra thế hệ thứ hai (điện thoại 2G) vào những năm 90 thì các
mạng kỹ thuật số mới có thể được sử dụng.
The digital element enabled faster signalling.
Yếu tố kỹ thuật số cho phép phát tín hiệu nhanh hơn.
At the same time, developments in battery design and energy-saving electronics allowed the
phones themselves to become smaller and therefore more truly mobile.
Đồng thời, sự phát triển trong thiết kế pin và các thiết bị điện tử tiết kiệm năng lượng cho
phép những chiếc điện thoại trở nên nhỏ hơn và vì thế chúng trở thành những chiếc di động
thực sự.
The second generation allowed for text messaging too, and this began with the first person-to-
person text message in Finland in 1993, although a machine-generated text message had been
successfully sent two years earlier.
Thế hệ thứ hai cũng cho phép soạn thảo tin nhắn văn bản, và điều này bắt đầu với tin nhắn văn
bản được gửi từ người này qua người khác đầu tiên ở Phần Lan vào năm 1993, mặc dù tin nhắn
văn bản do một máy tạo ra đã được gửi thành công hai năm trước đó.
None of this would have been possible without the development of duplex technology to replace
the relatively primitive simplex technology of the first phase of mobile communication.
Việc này đã không thể xảy ra nếu không có sự phát triển của công nghệ duplex (chuyển tiếp hai
chiều) để thay thế cho công nghệ simplex tương đối sơ khai ở giai đoạn đầu của thông tin di
động.
In duplex technology, there are two frequencies available simultaneously.
Với công nghệ duplex, có hai tần số có sẵn cùng một lúc.
These two frequencies can be obtained by the principle of Frequency Division Duplex (FDD).
Hai tần số này có thể được sử dụng bởi nguyên tắc Frequency Division Duplex (FDD) (phân
chia chuyển tiếp hai chiều theo tần số).
To send two signals wirelessly, it is necessary to create a paired spectrum, where one band
carries the uplink (from phone to antenna) and the other carries the downlink (from antenna to
phone).
Để gửi hai tín hiệu không dây, việc tạo ra một cặp quang phổ là cần thiết, nơi mà một dải băng
tần mang tín hiệu lên (uplink) (từ điện thoại đến ăng ten) và dải băng tần khác mang tín hiệu
xuống (downlink) (từ ăng ten đến điệm thoại).
Time Division Duplex (TDD) can achieve the same thing, but instead of splitting the frequency,
the uplink and downlink are switched very rapidly, giving the impression that one frequency is
used.
Phân chia chuyển tiếp hai chiều theo thời gian (TDD) có thể đạt được điều tương tự, nhưng thay
vì chia tần số, tín hiệu lên và tín hiệu xuống được chuyển rất nhanh, mang lại cảm giác rằng
một tần số được sử dụng.
For mobile telephony to work to its fullest potential, it needs to have a network through which it
can relay signals.
Để điện thoại di động hoạt động tối đa tiềm năng của nó, cần có một mạng lưới mà thông qua đó
nó có thể chuyển tiếp những tín hiệu.
This network depends on base stations which send and receive the signals.
Mạng lưới này phụ thuộc vào các trạm cơ sở gửi và nhận các tín hiệu.
The base stations tend to be simple constructions, or masts, on top of which are mounted the
antennas.
Những trạm cơ sở có xu hướng xây dựng đơn giản, hoặc những cột cao, phía trên đó được gắn
những chiếc ăng ten.
With the rapid increase in demand for mobile services, the infrastructure of antennas in the
United Kingdom is now huge.
Với sự gia tăng nhanh chóng của nhu cầu dịch vụ di động, cơ sở hạ tầng của ăng ten ở Anh hiện
nay là rất lớn.
Many thousands of reports have appeared claiming that the signals relayed by these antennas
are harmful to human and animal health.
Hàng ngàn báo cáo đã xuất hiện cho rằng những tín hiệu chuyển tiếp bởi những ăng ten này có
hại cho sức khỏe con người và động vật.
The claims focus on the fact that the antennas are transmitting radio waves in microwave form.
Những cáo buộc tập trung vào sự thật rằng ăng ten đang truyền sóng vô tuyến ở dạng sóng
ngắn.
In some ways, public demand is responsible for the increase in the alleged threat to health.
Trong một số phương diện khác nhau, nhu cầu chung chịu trách nhiệm cho sự tăng lên những
mối đe dọa đối với sức khỏe.
Until quite recently, voice and text messages were transmitted using 2G technology.
Cho đến gần đây, tin nhắn thoại và tin nhắn văn bản đã được truyền bằng cách sử dụng công
nghệ 2G.
A 2G mast can send a low-frequency microwave signal approximately 35 kilometres.
Một cột 2G có thể gửi một tín hiệu sóng ngắn với tần số thấp xấp xỉ 35km.
Third generation (3G) technology allows users to wirelessly download information from the
internet and is extremely popular.
Công nghệ thế hệ thứ 3 (3G) cho phép người dùng sử dụng mạng không dây tải xuống thông tin
từ mạng internet và rất phổ biến.
The difference is that 3G technology uses a higher frequency to carry the signals, allowing masts
to emit more radiation.
Sự khác nhau là công nghệ 3G sử dụng tần số cao hơn để mang tín hiệu, cho phép các cột ăng
ten phát ra bức xạ nhiều hơn.
This problem Is intensified by the need to have masts in closer proximity to each other and to the
handsets themselves.
Vấn đề này được tăng cường bởi sự cần thiết có các cột ăng ten gần với nhau và gần với thiết bị
cầm tay hơn.
Whatever danger there was in 2G signals is greatly multiplied by the fact that the 3G masts are
physically much closer to people.
Dù thế nào thì nguy cơ có trong những tín hiệu 2G cũng được nhân lên gấp nhiều lần bởi sự thật
rằng các cột ăng ten 3G gần với con người hơn nhiều.
Government authorities have so far refused to accept that there is a danger to public health, and
tests carried out by governments and telecommunications companies have been restricted to
testing to see if heat is being produced from these microwaves.
Các cơ quan của chính phủ cho đến nay đã không thừa nhận có một sự nguy hiểm cho sức
khỏe cộng đồng, và những cuộc kiểm tra được thực thi bởi chính phủ và các công ty viễn thông
đã bị hạn chế để kiểm tra xem liệu có nhiệt được tạo ra từ những sóng ngắn này hay không.
According to many, however, the problem is not heat, but electromagnetic waves which are
found near the masts.
Theo nhiều người, vấn đề không phải là do sức nóng, mà do sóng điện từ được tìm thấy ở gần
cột ăng ten.
It is believed that some people, though not all, have a condition known as electro-
sensitivity or electro-hypersensitivity (EHS), meaning that the electromagnetism makes them
ill in some way.
Người ta tin rằng, một số người, mặc dù không phải là tất cả, có một tình trạng được gọi là nhạy
cảm điện hay mẫn cảm điện, có nghĩa là điện từ làm họ bị bệnh bằng một cách nào đó.
The actual health threat from these pulsed microwave signals is an area which greatly needs
more research.
Mối đe dọa sức khỏe thực sự từ những xung sóng ngắn là một lĩnh vực cần nhiều nghiên cứu
hơn nữa.
It has been claimed that the signals affect all living organisms, including plants, at a cellular
level and cause symptoms in people ranging from tiredness and headaches to cancer.
Người ta cho rằng những tín hiệu ảnh hưởng đến tất cả cơ thể sống, bao gồm thực vật, ở cấp
độ tế bào và gây ra những triệu chứng từ mệt mỏi, nhức đầu cho đến ung thư.
Of particular concern is the effect that increased electromagnetic fields may have on children
and the fear is that the negative effects on their health may not manifest themselves until they
have had many years of continued exposure to high levels.
Mối quan tâm đặc biệt là sự ảnh hưởng của việc tăng trường điện từ có thể có đối với trẻ em
và sự lo sợ rằng những tác động tiêu cực đối với sức khỏe chúng có thể không có những biểu
hiện cho đến khi chúng tiếp tục tiếp xúc ở mức độ cao trong nhiều năm.
Tests carried out on animals living close to this form of radiation are particulady useful because
scientists can rule out the psychological effect that humans might be exhibiting due to their fear
of possible contamination.
Những bài kiểm tra được thực hiên trên động vật sống gần với bức xạ này thực sự hữu ích bởi
vì các nhà khoa học có thể loại trừ những tác động tâm lý mà con người có thể bộc lộ bởi vì
khả năng lây nhiễm nỗi sợ hãi của họ.
Of course, the danger of exposure exists when using a mobile phone but since we do this for
limited periods, between which it is believed our bodies can recover, it is not considered as
serious as the effect of living or working near a mast (sometimes mounted on the very building
we occupy) which is transmitting electromagnetic waves 24 hours a day.
Tất nhiên, có những nguy hiểm của việc ếp xúc khi sử dụng điện thoại di động nhưng nếu chúng ta sử
dụng trong thời gian hạn chế, người ta n rằng cơ thể chúng ta có thể phục hồi, nó không được coi là
nghiêm trọng như tác động của việc sống hoặc làm việc gần gần cột sóng (đôi khi được gắn trên tòa nhà
chúng ta đang sinh sống) đang truyền sóng điện từ 24 giờ một ngày.
Dịch bởi NGUYEN THI THÙY AN
(Check bởi Đặng Văn Thương)
Link:
http://mini-ielts.com/1239/reading/how-mobile-telephony-turned-into-a-health-scare

You might also like